Contents
- Nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận thức quan hệ quốc tế
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
- Tình hình thế giới: Vận động theo quy luật trong bối cảnh phức tạp
- Trật tự thế giới đang thay đổi
- Động lực từ cách mạng khoa học – công nghệ
- Cạnh tranh chiến lược và hệ lụy
- ASEAN và Việt Nam trước thời cuộc
- Thách thức và cơ hội cho ASEAN
- Việt Nam: Phát huy thế và lực, chủ động hội nhập
- Đánh giá chung
- Tài liệu tham khảo
- Tải tài liệu: Phân tích tình hình thế giới PDF
Những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã được kiểm chứng qua thực tiễn, vượt qua nhiều biến cố lịch sử và vẫn giữ nguyên giá trị khoa học trước những bước tiến mới của nhân loại. Là kim chỉ nam tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cung cấp một thế giới quan và phương pháp luận khoa học vững chắc. Vận dụng sáng tạo nền tảng này giúp chúng ta nhận thức đúng đắn các xu hướng, quy luật vận động của quan hệ quốc tế trong bối cảnh thế giới đầy biến động, khó lường, đặc biệt khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ. Việc nắm bắt thời cơ, phát huy trí tuệ
và khát vọng
dân tộc, vỡ bỏ
những rào cản tư duy cũ, chủ động dùng
(chủ dùng
) nguồn lực từ đại kho
tri thức toàn cầu, kể cả các tài liệu dạng PDF
, là yêu cầu cấp thiết.
Nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận thức quan hệ quốc tế
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, với sự kế thừa tinh hoa tư tưởng nhân loại, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học phổ quát. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C. Mác, được củng cố và phát triển bởi các thành tựu khoa học, đã sớm dự báo về sức mạnh của khoa học – công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo (cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa), nhân loại hiện đang bước vào Cách mạng công nghiệp 4.0 với nền tảng là trí tuệ nhân tạo (AI), Internet Vạn vật (IoT), robot và dữ liệu lớn.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử
Phép biện chứng duy vật của C. Mác, thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận, cho phép chúng ta nhận diện tính quy luật, trật tự lô-gíc và các quy luật lịch sử ẩn sau những biến động tưởng chừng hỗn loạn, ngẫu nhiên. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cung cấp hệ thống quan điểm về xã hội, chỉ ra nguồn gốc, động lực và quy luật vận động chung của xã hội loài người. Do đó, những biến động phức tạp của thế giới hiện nay và thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 đều nằm trong dòng chảy của các quy luật khách quan đó.
Lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất cho thấy lực lượng sản xuất là yếu tố năng động nhất, cách mạng nhất. Công cụ lao động ngày càng hiện đại thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, kéo theo sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất. Ngày nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đã nâng cao vai trò của trí tuệ, tri thức khoa học. Cạnh tranh quốc gia không còn chỉ dựa vào vốn hay đất đai mà phụ thuộc chủ yếu vào trình độ tư duy, dân trí và năng lực trí tuệ. Khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Trong quá trình tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Hệ thống quan điểm của Người về đối ngoại bao gồm: nhận thức về quốc tế và quan hệ chính trị quốc tế; mục tiêu đối ngoại; tập hợp lực lượng; phương châm, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lợi ích quốc gia, dân tộc phải được đặt lên trên hết. Phương châm đối ngoại cốt lõi là “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Cái “bất biến” hiện nay chính là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cái “vạn biến” đòi hỏi sự linh hoạt, khôn khéo trong ứng xử trước tình hình thế giới biến động. Người coi đối ngoại là một mặt trận quan trọng, cần “thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”(1) để cách mạng thành công. Người cũng nhấn mạnh mối liên hệ biện chứng giữa tình hình trong nước và thế giới: “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”(2). Tuy nhiên, phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, có biện pháp riêng, vì “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(3). Chính sách đối ngoại cần rộng mở, hợp tác, hòa bình, tránh đối đầu, gây thù oán. Trong quan hệ quốc tế, cần tăng cường điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, phát huy sức mạnh thời đại. Cần “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để có đối sách phù hợp trước mắt và lâu dài. Đây là những chỉ dẫn quý báu để nhận định cục diện quốc tế và giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Tình hình thế giới: Vận động theo quy luật trong bối cảnh phức tạp
Xu thế lớn trên thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác và phát triển, là lợi ích chung của các quốc gia. Tuy nhiên, thế giới cũng đối mặt với nhiều thách thức an ninh phức tạp, nổi bật là cạnh tranh chiến lược giữa các nước, đặc biệt là các nước lớn. Cạnh tranh diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn cầu và khu vực, bao trùm nhiều lĩnh vực từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại, công nghệ đến tài nguyên, môi trường, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, không gian mạng, liên quan đến cả an ninh truyền thống và phi truyền thống.
Nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin chỉ ra rằng, phát triển là khuynh hướng chung nhưng không phải lúc nào cũng thẳng tiến mà có thể quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tương đối. Đây là quá trình tự thân, là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn nội tại. Cái mới ra đời phủ định cái cũ nhưng kế thừa các yếu tố tích cực, tạo ra sự phát triển theo đường xoáy ốc.
Trật tự thế giới đang thay đổi
Sự thay đổi nhanh chóng về tương quan lực lượng, khác biệt lợi ích chiến lược giữa các nước lớn, biến động công nghệ, tình hình chính trị nội bộ và tác động qua lại phức tạp giữa các yếu tố này đang định hình lại trật tự thế giới. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy, cánh hữu, cực đoan cùng với lối hành xử chính trị cường quyền, áp đặt, vị kỷ của một số nước lớn, bỏ qua lợi ích chính đáng của các nước khác và cộng đồng quốc tế, đang làm gia tăng căng thẳng. Thêm vào đó là tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng. Cục diện thế giới hiện hữu đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ.
Động lực từ cách mạng khoa học – công nghệ
Lịch sử cho thấy, các cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật luôn là động lực làm thay đổi hình thái kinh tế – xã hội. Những lực lượng nắm giữ công nghệ tiên tiến thường có khả năng chi phối về tài chính, quân sự và chính trị. Mỗi đột phá công nghệ lớn đều tạo ra cách mạng trong phương tiện sản xuất, làm thay đổi cấu trúc chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (cuối thế kỷ XVIII – đầu XIX) biến sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, thay đổi xã hội nông nghiệp, tăng năng suất lao động, phân hóa lao động, dẫn đến biến động xã hội và quá trình xâm chiếm thuộc địa, khởi đầu toàn cầu hóa. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã phân tích sâu sắc quá trình này(4), chỉ rõ: “Giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội”(5).
- Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (sử dụng điện, sản xuất hàng loạt) tích lũy vốn, gia tăng phân hóa xã hội, dẫn đến chủ nghĩa đế quốc và hai cuộc chiến tranh thế giới. Mỹ vươn lên thành siêu cường nhờ ưu thế công nghệ.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (từ 1969, công nghệ thông tin, tự động hóa) tiếp tục làm thay đổi sâu sắc lực lượng sản xuất và mọi mặt đời sống.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với công nghệ thông minh đang tạo ra những tác động mạnh mẽ hơn theo cấp số nhân. AI với khả năng học máy, dữ liệu lớn và công nghệ 5G đang tái tạo năng lực nhận thức của con người ở cấp độ cao hơn. Quy luật biện chứng lịch sử cho thấy thế giới có thể trải qua các giai đoạn: “thời kỳ vàng son” mới, sự bất bình đẳng mới, sự nổi lên của các chủ thể hùng mạnh mới nhờ công nghệ. Sau đó, cần thời gian để xã hội hóa phương tiện sản xuất mới và hình thành tầng lớp trung lưu mới.
Thế giới đang ở giai đoạn đầu của kỷ nguyên số. Các công ty công nghệ siêu quốc gia (chủ yếu của Mỹ) đang hưởng lợi lớn từ lợi thế độc quyền dữ liệu khổng lồ, gia tăng ảnh hưởng kinh tế và chính trị. Các quốc gia chậm đổi mới sẽ bị tụt hậu xa.
Cạnh tranh chiến lược và hệ lụy
Sự chuyển đổi công nghệ gây ra biến động xã hội như thất nghiệp, xáo trộn, chia rẽ chính trị. Phân hóa xã hội gia tăng ở nhiều nước, tạo ra những tác động chính trị toàn cầu. Quá trình toàn cầu hóa cho thấy sự phân hóa giữa các quốc gia. Một số nước phát triển lại cảm thấy bị tổn thương do đình trệ tiền lương, mất việc làm, gia tăng khoảng cách thu nhập. Những mâu thuẫn này làm gia tăng chủ nghĩa dân túy, cực hữu, cực đoan, đôi khi kết hợp với chủ nghĩa dân tộc(6), cũng như chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, chính trị cường quyền, đe dọa hòa bình và ổn định.
Nguy cơ về sự căng thẳng giữa tiến bộ khoa học và lương tâm, kỹ thuật và đạo đức cũng ngày càng lớn, như cảnh báo của nguyên Tổng Thư ký UNESCO F. Mayor(7). Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội có thể tiếp tục gia tăng. Sự vận động của những mâu thuẫn này đang định hình quan hệ quốc tế mới.
Cạnh tranh Mỹ – Trung Quốc là biểu hiện rõ nét của sự thay đổi này. Bản chất của nó là tranh giành quyền lực và ảnh hưởng. Trung Quốc, sau hơn 40 năm cải cách và phát triển vượt bậc, đang nỗ lực chuyển hóa sức mạnh kinh tế thành sức mạnh chính trị toàn cầu, trở thành đối tượng kiềm chế của Mỹ. Cùng với cọ xát địa – chiến lược và thương mại, cốt lõi của cạnh tranh Mỹ – Trung là cuộc đua làm chủ công nghệ tương lai.
ASEAN và Việt Nam trước thời cuộc
Cạnh tranh công nghệ thông minh và tác động kinh tế của nó sẽ định hình chính sách đối ngoại trong tương lai. Trong thế giới biến đổi nhanh chóng, công nghệ là chìa khóa. Các khu vực, quốc gia tụt hậu sẽ bị bỏ lại rất xa.
Thách thức và cơ hội cho ASEAN
Đối với ASEAN, việc bắt kịp xu thế, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, duy trì sự thích ứng chiến lược về kinh tế và địa – chính trị là rất quan trọng. Để giữ vai trò trung tâm và có tiếng nói trong định hình trật tự khu vực và thế giới, ASEAN cần tăng cường đoàn kết nội khối, thúc đẩy liên kết chặt chẽ với các đối tác, tạo dựng vị thế trung tâm trong các cấu trúc khu vực đang định hình (như Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương). ASEAN cần tận dụng cơ hội hợp tác kinh tế, hội nhập, xây dựng thể chế đa phương, nâng cao vị thế tập thể trong các vấn đề thương mại, an ninh, công nghệ. Đồng thời, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trong các khuôn khổ như BRI, RCEP, CPTPP và các dự án tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Việt Nam: Phát huy thế và lực, chủ động hội nhập
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo dựng thế và lực mới, bảo đảm môi trường an ninh, nâng cao vị thế quốc tế. Hội nhập quốc tế mang lại nguồn lực quan trọng cho phát triển. Việc trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021 với số phiếu kỷ lục là minh chứng cho uy tín và khả năng đóng góp của Việt Nam vào công việc chung của thế giới. Những thành quả này khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập vì lợi ích quốc gia – dân tộc.
Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0. Tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với phương châm kết nối, liên kết, hợp tác, hòa giải và cùng phát triển. Phát huy vị thế địa – chiến lược, địa – kinh tế, địa – công nghệ để xây dựng chiến lược tăng cường kết nối hạ tầng “cứng” (giao thông, cảng biển) và “mềm” (kỹ thuật số, dữ liệu, nhân lực). Tăng cường kết nối trong ASEAN, với các khu vực mậu dịch tự do, giữa Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực. Tích cực thúc đẩy kết nối cùng có lợi giữa các sáng kiến khu vực (như CPTPP, RCEP, BRI…). Xây dựng Việt Nam thành một trung tâm trong các chuỗi liên kết mới, khai thác tốt hơn thị trường ASEAN. Đây là con đường hiện thực hóa khát vọng
dân tộc, đòi hỏi trí tuệ
và nỗ lực vỡ bỏ
những giới hạn, chủ động dùng
(chủ dùng
) mọi nguồn lực, bao gồm cả việc khai thác đại kho
tri thức số toàn cầu qua nhiều hình thức, kể cả các tài liệu dạng PDF
.
Việt Nam cần tiếp tục đóng góp tích cực vào các cơ chế đa phương theo tinh thần Chỉ thị số 25/CT-TW của Ban Bí thư, phát huy vai trò tại ASEAN và Liên hợp quốc, đặc biệt khi đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an 2020 – 2021. Qua đó, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, đồng thời tham gia định hình các chuẩn mực quản trị toàn cầu, xây dựng trật tự thế giới hòa bình, công bằng, dân chủ và tiến bộ.
Đánh giá chung
Thế giới đang ở một giai đoạn lịch sử đặc biệt với những thay đổi to lớn, mang đến cả thách thức và vận hội. Việt Nam, với thế và lực mới sau hơn 30 năm đổi mới, có nền tảng vững chắc để tiếp tục hội nhập và phát triển. Việc nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chìa khóa để nhận diện đúng bản chất vận động của tình hình thế giới. Đây là cơ sở khoa học cho việc hoạch định và thực thi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhằm phát huy tối đa sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, hiện thực hóa khát vọng
xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 453
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 346
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 320
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 457
(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, 1995, tr. 600
(6) Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy trong các nền chính trị, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2798-moi-quan-he-giua-chu-nghia-dan-toc-va-chu-nghia-dan-tuy-trong-cac-nen-chinh-tri.html, ngày 25-4-2019
(7) Tạp chí The UNESCO Courier, số tháng 5-1998
Tải tài liệu: Phân tích tình hình thế giới PDF
Để tìm hiểu sâu hơn về các phân tích và nhận định trong bài viết, bạn đọc có thể tìm kiếm các tài liệu nghiên cứu liên quan hoặc tham khảo các ấn phẩm của Tạp chí Cộng sản. Việc tiếp cận các nguồn thông tin chính thống, bao gồm cả định dạng PDF
, giúp nâng cao nhận thức và trí tuệ
trong việc đánh giá tình hình quốc tế phức tạp hiện nay.