Trong kho tàng tài liệu lịch sử quân sự Việt Nam, những phân tích về chiến lược, tầm nhìn của các nhà lãnh đạo và cả những ghi chép chân thực về trách nhiệm, sự hy sinh của người lính luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt. Nhiều độc giả tìm kiếm các ấn phẩm dạng PDF để tiện nghiên cứu, trong đó có những tài liệu quý giá như “Chiến Lược Biển Từ Tầm Nhìn Của Tướng Giáp đến Trách Nhiệm Của Người Lính Nơi đầu Sóng Ngọn Gió PDF”. Bên cạnh những tài liệu mang tầm chiến lược vĩ mô, những trang hồi ký cá nhân của những người trực tiếp cầm súng nơi chiến trường lại mang đến một góc nhìn khác, một sự thật trần trụi và đầy cảm xúc về cuộc chiến. Hồi ký “Nửa Đời Chinh Chiến” của cựu Trung tá Thủy Quân Lục Chiến Trần Ngọc Toàn, Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, là một tài liệu như thế. Dù không trực tiếp bàn về chiến lược biển hay tầm nhìn của Tướng Giáp, cuốn hồi ký này lại phác họa rõ nét trách nhiệm, sự hy sinh và những tâm tư của người lính VNCH trong cuộc chiến khốc liệt, mang đến một mảnh ghép quan trọng để hiểu đầy đủ hơn về một giai đoạn lịch sử phức tạp của dân tộc.

Từ Giảng Đường Võ Bị Đến Lửa Đạn Chiến Trường

Tôi tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam vào ngày 22 tháng 12 năm 1962, khi vừa tròn 22 tuổi. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, tiền thân là École des Inter-Armes của quân đội Liên hiệp Pháp, đã được cải tổ thành trường Võ Bị Quốc Gia theo mô hình West Point của Hoa Kỳ. Cơ sở vật chất được xây dựng trên đồi 1515 phía Tây Đà Lạt với sự viện trợ của Mỹ. Chương trình đào tạo kéo dài 4 năm, bao gồm Khoa học ứng dụng và quân sự từ cấp khinh binh đến Trung đội trưởng, Đại đội trưởng liên Quân chủng, nhằm mục tiêu đào tạo sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp cho Quân Đội. Tuy nhiên, do nhu cầu cấp bách của chiến trường, khóa 16 chúng tôi chỉ học 3 năm và Tổng thống Diệm đã đích thân chủ tọa lễ mãn khóa. Hơn 200 sĩ quan tốt nghiệp được phân bổ về các quân binh chủng: Không quân (27), Hải quân (15), Nhảy dù (3, gồm Thủ khoa Bùi Quyền), Thủy Quân Lục Chiến (10, gồm Á khoa Nguyễn Xuân Phúc – người sau này nổi danh trong trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị), Lực lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân, và các Sư Đoàn Bộ Binh trải dài từ Cà Mau đến Huế, Quảng Trị. Chỉ trong vòng một năm sau ngày ra trường, gần 50 bạn đồng khóa của tôi đã hy sinh ngoài mặt trận.

Những Bước Chân Đầu Tiên Của Người Sĩ Quan Trẻ

Dù khóa chúng tôi đã được huấn luyện thêm tại Trung tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ trước khi tốt nghiệp, khi về đơn vị Thủy Quân Lục Chiến (TQLC), tôi vẫn chưa được giao chỉ huy Trung đội ngay. Ít nhất phải mất 3 tháng mang súng đi theo học hỏi kinh nghiệm từ các Hạ sĩ quan (HSQ) kỳ cựu, nhiều người trong số họ xuất thân từ các đơn vị Commando của Pháp. Tâm lý học phân tích tôi thuộc mẫu người phản ứng chậm. Lần đầu tiên chính thức nắm quyền Trung đội trưởng, chỉ huy hơn 40 TQLC cùng các HSQ và hạ sĩ dày dạn kinh nghiệm, đối mặt với đám lính có phần ngỗ ngược, tôi cũng cố tỏ ra mình lì lợm.

Thử Lửa Đầu Đời và Bài Học Xương Máu

Trong một cuộc hành quân tìm diệt địch tại vùng ruộng Cai Lậy, Mỹ Tho, khi đang cầm bản đồ chỉ huy dàn quân tiến vào bìa làng, tôi bất ngờ hứng chịu một loạt đạn Việt Cộng (VC) bắn xối xả. Lính tráng đồng loạt nằm xuống ẩn nấp. Chỉ riêng tôi, do phản ứng chậm, vẫn đứng lớ ngớ. Loạt đạn đầu tiên vừa dứt, tiếng súng im bặt. VC chỉ bắn dọa và đánh lạc hướng. Quay sang phải, tôi thấy người lính gốc Miên nằm dưới mương đã trúng đạn. Chiếc nón sắt lật ngửa, chứa đầy óc trắng. Khẩu súng Garant vẫn gác trên bờ mương, máu phun ướt cả ống quần phải của tôi. Tôi hét lên: “Y tá đâu?”. Một ý nghĩ vụt qua đầu: “Sống chết có số”. Tôi đứng đó như trời trồng, còn người lính nhanh nhẹn nằm núp ngay chân tôi lại hy sinh. Viên đạn trúng ngay giữa tam tinh nón sắt, xuyên qua đầu. Nếu lệch một milimet, có lẽ anh đã không sao. Lúc ấy, tôi mới thấy lạnh sống lưng, nhưng cũng từ đó, niềm tin vào “số phận” khiến tôi không còn sợ hãi. Sau này, tôi nghe đám HSQ và lính tráng bàn tán: “Ông Thiếu Úy Đà Lạt này chì lắm”. Từ đó, họ răm rắp tuân lệnh tôi. Đó chính là “baptême de feu” – lễ rửa lửa. Cũng từ đó, tôi đã thực sự “vào sinh ra tử” không biết bao nhiêu lần trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam, cho đến tận cuộc di tản khốc liệt từ Quảng Trị về Hố Nai, Biên Hòa vào cuối tháng 4 năm 1975.

Bối Cảnh Chiến Trường và Thực Trạng Trang Bị

Qua sách vở của VC sau năm 1975, tôi mới biết Cộng sản Miền Bắc đã đưa các cán bộ tập kết năm 1954 trở lại Miền Nam từ năm 1958, cùng với quân chính quy Miền Bắc. Vũ khí Liên Xô, Trung Cộng, Tiệp Khắc được tuồn vào Nam bằng cả đường bộ lẫn đường biển. Đến năm 1962, lực lượng VC đã lên đến 100 ngàn quân, trang bị AK47, CKC, RPD và B40. Trong khi đó, khi Tiểu đoàn 4 TQLC (TĐ4 TQLC) tham gia trận Bình Giả cuối năm 1964, lính chúng tôi vẫn còn sử dụng súng Garant M1, Carbine M1, súng phóng lựu từ thời Đệ Nhị Thế Chiến của Mỹ. TQLC lại được xem là đơn vị Tổng Trừ Bị tinh nhuệ của Miền Nam. Câu hỏi đặt ra là các tướng lãnh VNCH khi đó biết gì, đã làm gì và chỉ huy mặt trận ra sao? Hay họ mải mê tranh giành quyền lực, tham ô nhũng lạm, ăn chơi trác táng, phe phái nịnh bợ sau ngày Tổng thống Diệm bị hạ sát, bỏ mặc binh sĩ hy sinh ngoài mặt trận?

Chúng tôi bước vào cuộc chiến với nhiệt huyết tuổi trẻ và đầy lãng mạn. Lý tưởng của người hiệp sĩ xuống núi là bảo vệ non sông, mang lại an bình, ấm no cho dân chúng. Trong số bạn cùng khóa Võ Bị về TQLC, có Trịnh An Thạch, bạn học cùng lớp Trung học Quang Trung, Đà Lạt. Đầu năm 1963, khi cùng nhau trình diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC ở Thị Nghè, chúng tôi đều muốn ra đơn vị tác chiến. Không rõ Tư lệnh phó Nguyễn Bá Liên nghĩ gì mà lại điều Thạch về Tiểu đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ ở hậu cứ. Do chúng tôi không chọn đơn vị cụ thể, Trưởng phòng Nhân Viên quyết định phân phối theo thứ tự ABC. Trần Văn Hiển đi TĐ1, Nguyễn Văn Kim và Nguyễn Xuân Phúc đi TĐ2. Ba người có tên bắt đầu bằng chữ T là Nguyễn Đàng Tống, Đỗ Hữu Tùng và tôi về TĐ4. Thạch thấy vậy nhất quyết xin Tư lệnh phó cho ra tác chiến và cuối cùng được về TĐ1 cùng Hiển. Cuối năm 1963, Trịnh An Thạch tử trận ở Tây Ninh khi mới 23 tuổi, cấp bậc Thiếu Úy Trung đội trưởng. Anh mồ côi cha từ nhỏ, là con trai duy nhất. Nỗi đau để lại cho người mẹ già thật lớn lao. Làm sao có thể để sự hy sinh của anh rơi vào quên lãng? Cùng thời điểm, bên Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, chúng tôi mất thêm Lý Văn Quảng, cũng là Thiếu Úy độc thân, ngã xuống ở mặt trận Tây Ninh. Chúng tôi nhận tin khi đang ở một mặt trận khác. Thời Tổng Thống Diệm, lương Thiếu Úy khá dư dả. Hành quân về Sài Gòn, chúng tôi còn rủ nhau đi ăn cơm Tây, xem phim. Sau năm 1963, lương chỉ đủ ăn, dù đã có chiến phục rằn ri và còn độc thân. Sau này lên Thiếu tá, Trung tá vẫn chật vật.

Người ta thường hỏi tại sao lại chọn binh nghiệp giữa bao nhiêu nghề để sống. Ai cũng yêu hòa bình, ghê tởm chiến tranh. Nhưng lịch sử loài người cho thấy chiến tranh luôn hiện hữu. Quốc gia có lãnh thổ phải có quân đội để bảo vệ. Thời bình vẫn phải chuẩn bị cho chiến tranh. Không có quân đội, như Tây Tạng, dễ bị xâm chiếm. Quân đội phải chuyên nghiệp, hùng mạnh trong thời bình. Khi chiến tranh nổ ra, toàn dân sẽ được động viên như Do Thái. Trường West Point không chỉ đào tạo tướng lĩnh như MacArthur mà cả Tổng thống như Eisenhower. Quân đội chuyên nghiệp là khung sườn vững chắc để cuộc tổng động viên đạt hiệu quả. Với tôi, việc chọn binh nghiệp xuất phát từ hoàn cảnh gia đình. Mẹ mất sớm, cha tái giá, cảnh dì ghẻ con chồng khiến tôi muốn tự lập. Đậu Tú Tài, tôi vào Võ Bị Quốc Gia với mong muốn học lên Đại học và tự lực cánh sinh. Tôi trở thành sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp của chế độ độc lập, dân chủ, tự do đầu tiên của Việt Nam. Lớn lên ở Đà Lạt, tôi từng thấy Hoàng Đế Bảo Đại, trưởng thành dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhưng trớ trêu thay, chính đơn vị tôi, TĐ4 TQLC, lại tham gia đảo chính Tổng thống Diệm vào trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963.

Biến Cố Chính Trị và Cuộc Đảo Chính Ngày 1/11/1963

Trước ngày 1/11/1963, các khóa Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức tốt nghiệp cùng lúc với chúng tôi chưa có quy chế đương nhiên lên Thiếu Úy. Vài tháng sau khi chính thức chỉ huy Trung đội, tôi được Trung úy Trần Văn Hoán bổ nhiệm kiêm Đại đội phó. Dù đã tỏ ra có bản lĩnh, nhưng tuổi trẻ khiến tôi còn vô tư, ham chơi. TQLC là lực lượng Tổng trừ bị, Tiểu đoàn TQLC tự trị về hành chính với quân số gần 900 người, gồm 4 đại đội tác chiến và Đại đội Chỉ huy & Hành chính. Tiểu đoàn thường được điều đến những mặt trận nóng bỏng nhất. Chúng tôi hành quân liên miên từ Cà Mau, Chương Thiện, Bến Tre, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười lên rừng núi Miền Đông, Pleiku, Kontum, xuống Bình Định, An Khê, Đỗ Xá… Sau mỗi cuộc hành quân khoảng 1 tháng, chúng tôi về Hậu cứ Vũng Tàu chỉnh trang 1-2 tuần, tha hồ rong chơi. Đôi khi, chúng tôi về nằm ứng chiến ở Trại Thị Nghè, bị cấm trại. Nhưng chiều tối yên ổn, bọn tôi lại lẻn ra phố Sài Gòn hoa lệ. Hành quân miết nên tiền bạc cũng rủng rỉnh. Lần nào ghé Sài Gòn tôi cũng tìm mua sách báo. Ở hậu cứ, tôi có cả tủ sách. Một lần ghé nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi, tôi giật mình nhận ra Isabelle ĐTTM ngồi sau quầy tính tiền. Cô là cô gái mảnh mai tôi hay gặp trên đường đi học ở Đà Lạt những năm 56-57. Tôi chọn sách xong, đến quầy, nhìn thẳng vào mắt cô hỏi có nhận ra tôi không. Cô ngơ ngác lắc đầu. Tôi nhắc lại chuyện cũ, rồi nói hành quân về hết tiền, xin nợ. Cô há hốc, mặt xanh lét. Tôi bảo đưa túi, bỏ sách vào rồi quay đi. Nhìn lại thấy cô đứng trố mắt, tôi bật cười quay lại trả tiền, nói chỉ đùa. Lúc đó cô đang làm Tiếp viên Hàng không Quốc ngoại, rảnh thì ra nhà sách chơi. Sau này cô thành phu nhân Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Lần khác, ba đứa bạn cùng khóa rủ nhau đi ăn ở Chợ Lớn. Nửa khuya về Trại bằng taxi Renault, gặp tài xế trẻ biểu diễn chạy xe bằng hai bánh trên Đại lộ Trần Hưng Đạo vắng vẻ. Xe Cảnh sát xuất hiện hú còi, bọn tôi phải làm mặt ngầu mới cứu được anh tài xế.

Nhiệm Vụ Bất Ngờ và Mệnh Lệnh Khó Xử

Những ngày vui ngắn ngủi. Chúng tôi lại miệt mài nơi chiến trận. VC lúc đó còn tránh né, chỉ đánh lẻ tẻ du kích. Thiệt hại chủ yếu do bắn sẻ, mìn, bẫy. Hành quân Miền Tây lội sình lầy nhưng dừng quân có thức ăn, ít đánh lớn. Ra Miền Trung khổ hơn, khó kiếm ăn mà gặp VC là đánh lớn. Cuối tháng 10 năm 1963, TĐ chúng tôi về Hậu cứ Vũng Tàu sau những ngày ở Bến Tre. Mới nghỉ một tuần, lại có lệnh hành quân Miền Đông. Sáng sớm hôm sau, đoàn xe Quân đoàn 3 xếp hàng dài trước cổng trại. Thầy trò lên xe, gia đình binh sĩ đứng hai bên đường tiễn biệt. Đoàn xe lăn bánh, đến chiều dừng ở vườn cao su Lai Khê đóng quân qua đêm. Đào hầm hố xong, ngày hôm sau yên tĩnh. Tôi nằm võng đọc sách. Nghe nói Tiểu đoàn trưởng đang họp. Rạng sáng 1 tháng 11 năm 1963, lệnh thu xếp lên xe về Sài Gòn chống đảo chánh. Lính tráng nghe về Sài Gòn thì hể hả. Tôi nghĩ đơn giản, quân đội chỉ làm theo lệnh. Đoàn xe về đến Xa lộ Biên Hòa, có Quân cảnh dẫn đường. Chắc là chống phe Tướng Nguyễn Chánh Thi. Đánh phe ta mới khó xử. Xe chạy một mạch đến Ngã Bảy Chợ Lớn, quẹo đường Cộng Hòa, rồi dừng trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Cảnh sát từ trong ra ngoài bỏ chạy tán loạn.

Diễn Biến Cuộc Chiếm Giữ Dinh Gia Long

Lính ào ào nhảy xuống xe vào Tổng Nha trước sự ngơ ngác của dân chúng. Tôi nhảy xuống, sốc lại dây ba chạc, bất đắc dĩ vào cổng. Vừa qua sân cờ, Binh nhất Sơn, đệ tử tôi, hớn hở chạy ra nói lấy được khẩu ru-lô trong phòng Đại tá Y. Tôi giận dữ quát: “Không được lấy đồ của người ta. Ra tập họp hết bên ngoài.” Rồi gọi HSQ Trung đội phó: “Trung sĩ nhất Lý Pit đâu, tập họp lại, chia vọng gác cổng chính ngay”. Tôi mường tượng có chuyện không ổn. Đại đội trưởng chỉ nói vắn tắt: “Mình chiếm giữ Tổng Nha Cảnh sát”. Tôi nghĩ không lẽ mình làm đảo chánh. Ngay sau đó, lệnh tiến quân dọc đường Cống Quỳnh ra bùng binh bến xe buýt. Lính TQLC ba-lô, súng ống đi hai hàng dọc kỷ luật. Đến bến xe, tôi vượt lên, chợt thấy Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, mặc kaki vàng, nón kết lá liễu, đứng cạnh xe Jeep nói chuyện với Đại úy Lê Hằng Minh, Tiểu đoàn trưởng của tôi. Tôi thoáng nghe TQLC phải chờ Thiết giáp của Đại úy Lý Tòng Bá đến mới đánh vào dinh Gia Long. Khoảng 1 giờ trưa ngày 1/11/1963. Tôi chợt nhận ra mình đang tham gia đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Tôi nhớ lại tháng 11 năm 1960, khi còn ở Võ Bị, tôi làm Sinh viên sĩ quan Trực Liên Đoàn lúc Đại tá Nguyễn Chánh Thi đảo chính. Trường cấm trại ứng chiến. Sáng hôm sau, tôi điều khiển lễ Chào Cờ, tự ý tuyên bố không hát bài “Suy tôn Ngô Tổng Thống”. Trưa đó, An Ninh Quân Đội rước tôi ra trình diện Trưởng Ty. Gặp Đại úy Hợi, người quen, ông đập bàn quát mắng nhưng cuối cùng cho về. Bây giờ tôi lại đi đảo chánh. Thua chắc phải chạy sang Miên.

Thiết giáp chưa tới, chúng tôi đã nhận lệnh tiến về đường Công Lý và Lê Thánh Tôn đánh vào dinh Gia Long. Trung úy Hoán cho lệnh bắn súng không giật 57 ly phá tường. Lính TQLC ào qua đường, vượt tường. Bên trong vài phát súng lẻ tẻ, TQLC không bắn trả. Chưa đầy nửa giờ, TĐ4 TQLC đã kiểm soát dinh Gia Long. Vào sân sau, thấy lính đang lùa một số quân nhân Liên binh Phòng Vệ Phủ Tổng thống ra ngoài. Tôi nhận ra Thiếu tá Huỳnh Văn Lạc, thầy cũ ở Võ Bị (sau lên Tướng Tư lệnh SĐ9 BB). Tôi vội chạy tới chào: “Thưa Thiếu Tá, tôi là cựu SVSQ khóa 16 đây”. Ông buồn bã buông tay. Tôi bảo lính kiếm ghế mời ông ngồi rồi ông bị đưa đi đâu không rõ. Lòng tôi xao xuyến như phạm tội. Tôi đi trông chừng lính lục soát. Xuống tầng hầm, phòng Ngô Đình Lệ Thủy bị lục tung. Một người lính ôm máy quay đĩa chạy qua, tôi rút súng quát: “Bỏ xuống ngay không tao bắn”. Anh ta vội bỏ xuống chạy lên. Hình như họ đã vào phòng bà Nhu. Đêm đó, TĐ2 TQLC đến bàn giao vị trí. Chúng tôi về Trại Thị Nghè. Hôm sau, nghe nói phái đoàn Phật giáo xin vào ủy lạo nhưng Thiếu tá Lê Hằng Minh (mới thăng cấp) từ chối. Lòng tôi trăm mối ngổn ngang. Lần đầu tiên, tôi nằm võng suy nghĩ về thế sự. Từ đó, tôi không còn vô tư nữa, cho đến ngày phải buông súng. Sau biến cố, chỉ còn bọn cầm súng ngoài mặt trận phải đổ máu xương chống Cộng sản.

Những Tháng Năm Sau Đảo Chính: Liên Miên Hành Quân

Sau đảo chính 1/11/1963, TĐ của tôi và các đơn vị TQLC khác bị cuốn vào vòng xoáy chính trị. Sau khi về Hậu cứ chỉnh đốn, chúng tôi được lệnh tăng phái cho Quân Khu 4 ở Miền Tây. Đoàn 35 xe GMC chạy từ Vũng Tàu qua Sài Gòn xuống tận Cà Mau. Mỗi lần qua phà sông Tiền, sông Hậu, tôi thấy lính hè nhau chạy trước. Tò mò đi theo, tôi phát hiện những “ổ nhện” dã chiến sau các quầy bán trái cây. Lính TQLC xếp hàng dài trước các chòi lá. Thì ra họ tranh thủ giải quyết “nhu cầu”. Tôi quay ra nói lớn: “Trả tiền đàng hoàng nghe tụi mày”. Cả đám đồng thanh: “Trả chớ, Thiếu úy”. Tiền lính tính liền. Bọn sĩ quan chúng tôi cũng không khá hơn. Về Hậu cứ hay Sài Gòn 1-2 tuần, ra phố khó gặp con gái. Họ sợ bộ đồ rằn ri, mũ nồi xanh ngỗ ngáo. Cha mẹ bạn gái cũ thì rỉ tai coi chừng thành góa phụ sớm. Chiều tối đó, chúng tôi mới đến phi trường dã chiến Cà Mau, chuẩn bị sáng mai đổ bộ trực thăng Mỹ vào Thới Bình, sông Ông Đốc.

Từ Miền Tây Sông Nước Đến Rừng Miền Đông

Tờ mờ sáng hôm sau, trực thăng Mỹ từ Cần Thơ đến. Mỗi chuyến chở một Đại đội. Đơn vị tôi nhảy trước xuống vườn thơm rộng. Vừa gom quân, tiếng súng VC nổ chát chúa. Tôi và trung đội nhắm hướng súng nổ xông lên. Vừa chạy lom khom vừa bắn. Tôi không kịp rút khẩu Colt. Vượt đến bờ ruộng, nằm xuống, thấy một tên VC giơ súng trường chạy về phía chúng tôi. Tôi la: “Đừng bắn nó”. Bên phải, tên đệ tử gốc Miên cầm lưỡi lê nhào tới định đâm tên VC đầu hàng. Tôi phóng tới đạp ngã tên đệ tử. Nó vùng vằng, mắt tóe lửa: “Tụi VC giết cha tui. Tui thù tụi nó”. Tôi dỗ dành: “Nó đầu hàng rồi. Dù gì cũng là người Việt Nam.” Lần đầu tiên, cuối năm 1963, tôi thấy khẩu CKC của Tiệp Khắc (VC gọi là súng trường bá đỏ). Tên tù binh được trực thăng đưa về Cần Thơ. VC rút lui, chỉ còn vết máu và dép râu.

Sáng hôm sau, chúng tôi bố trí chờ trực thăng chở cấp trên đến. Một Thiếu tá rắn chắc, mặt cương nghị, đẹp trai bước xuống. Đó là Thiếu tá Nguyễn Kiên Hùng, cựu TĐT TĐ3 TQLC, từng tham gia đảo chính 11/11/1960 thất bại phải sang Campuchia cùng Đại tá Thi. Ông Hùng, khóa 7 Võ Bị Đà Lạt, đến bàn giao Tiểu đoàn với Thiếu tá Lê Hằng Minh ngay tại mặt trận. Ông tỏ ra điềm đạm, tự tin. Sau bàn giao, ông họp các Đại đội trưởng, quyết định tiếp tục hành quân, lùng địch dọc sông Ông Đốc về Cà Mau ngay trong ngày để sáng mai lên xe về Sài Gòn ứng chiến. Ông cất nhắc tôi làm Quyền Đại đội trưởng ĐĐ Chỉ Huy, Thiếu úy Phan Như Đơn thay tôi ở ĐĐ2. Với hai cánh quân song song, đơn vị ì ạch băng đồng lội mương đến gần 9 giờ đêm mới về tới Cà Mau, không gặp kháng cự. Sáng sớm hôm sau, lính hớn hở lên xe về Sài Gòn, trú đóng tại Trại Thị Nghè.

Được nói chuyện với Thiếu tá Hùng, tôi biết thêm trong nhóm sang Miên có Trung úy Nguyễn Quang Minh và Trung úy Thái Trần Trọng Nghĩa (Thủ khoa K14 Võ Bị Đà Lạt). Hai người này đã theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ Nam Vang năm 1961. Sau này không rõ số phận họ, có tin đồn thấy Thái Trần Trọng Nghĩa mặc quân phục bộ đội VC sau 75, nhưng tôi e họ đã chết đâu đó. Nằm ứng chiến ở Sài Gòn khoảng 10 ngày, lại có lệnh hành quân nhảy trực thăng vào Đức Hòa, Đức Huệ. Xe đưa chúng tôi lên sân bay dã chiến Trảng Bàng, Tây Ninh. Trực thăng Mỹ thả chúng tôi xuống giữa rừng mía cao lút đầu, ngay bìa Đồng Tháp Mười, gần biên giới Miên. Quân tiến theo kế hoạch Quân Đoàn. Ngay xóm đầu, bắt được 2-3 tên VC ngậm ống đu đủ nấp dưới ao cùng súng CKC. Phá các cây rơm, tìm thấy ba-lô Trung Cộng còn mới. VC tránh né. Bỗng người lính vô tuyến chạy đến gặp TĐT. Cuộc điện đàm khá dài, T/T Hùng đuổi lính ra xa. Sau này tôi mới biết nguyên Trung úy Nguyễn Quang Minh, chỉ huy quân giải phóng, đã liên lạc với cấp chỉ huy cũ. Suốt năm ngày sau đó, chúng tôi không gặp kháng cự nào, cho đến khi băng qua Tha La xóm Đạo về Trảng Bàng. Lại về Sài Gòn ứng chiến dưỡng quân hai tuần, rồi lên C120 bay ra Quy Nhơn, lên xe về nằm dọc biển Sông Cầu chờ hành quân vào đèo An Khê. Một tuần sau lại ra Quy Nhơn bay về Sài Gòn ứng chiến chống đảo chánh.

Xáo Trộn Chính Trị và Binh Chủng TQLC

Sau đảo chính 1/11/63, Liên Đoàn TQLC có nhiều xáo trộn. Trung tá Lê Nguyên Khang lên Đại tá, bàn giao cho Trung tá Nguyễn Bá Liên và Thiếu tá Trần Văn Nhựt, rồi sang Philippines làm Tùy Viên Quân Sự. Sau “Chỉnh lý”, ông Khang về lại nắm Tư lệnh, lên Thiếu Tướng, kiêm Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô và Quân Đoàn III. Đại úy Bùi Thế Lân, TĐT TĐ4 TQLC 6 tháng, về làm Tham Mưu Trưởng Liên Đoàn dưới quyền ông Khang với lý do sức khỏe kém (ông đang du học ở Mỹ khi đảo chính xảy ra, được triệu hồi về và lên Thiếu tá). Vài năm sau, ông Lân lên Đại tá vẫn giữ chức Tham Mưu Trưởng. Trong khi đó, Thiếu tá Nguyễn Kiên Hùng, TĐT TĐ4 của tôi, từng cùng thời TĐT với ông Khang nhưng theo Đại tá Thi đảo chính 11/11/60, từ Campuchia về vẫn mang lon Thiếu tá, bị buộc đi học Chỉ Huy Tham Mưu Đà Lạt. Trung tá Nguyễn Thành Yên, nguyên TĐT TĐ2 TQLC, làm Tư lệnh Phó Liên Đoàn nhưng quyền hành thực tế nằm trong tay ông Khang và ông Lân. Ông LĐQ, từ Trung úy Phòng 2 Liên Đoàn, làm Chánh Văn phòng cho Tư lệnh Khang, cũng lên Trung tá nhanh chóng. Các cấp chỉ huy cũ như Thiếu tá Hoàng Tích Thông, Cổ Tấn Tinh Châu, Trần Văn Nhựt lần lượt rời binh chủng. Đại tá Tôn Thất Soạn, một sĩ quan bản lĩnh, đạo đức, đầy kinh nghiệm chiến trường với nhiều huân chương (cả Silver Star chữ V của Mỹ), cũng bị loại khỏi TQLC để dọn đường cho Tham Mưu trưởng BTL.

Ở TĐ4 TQLC, Thiếu tá Nguyễn Văn Nho về thay Thiếu tá Hùng đi học. Đơn vị hành quân bình định Tân Niên Tây, Tân Niên Đông (Gò Công) đầu năm 1964. Thiếu tá Nho tổ chức lại nhân sự. Đại úy Trần Văn Hoán (lên lon sau 1/11/63) làm Tiểu Đoàn Phó, giao Đại đội lại cho Thiếu úy Đỗ Hữu Tùng. Tôi từ Đại đội Chỉ huy được bổ nhiệm Quyền Đại đội trưởng Đại Đội 1 thay Đại úy Nguyễn Thành Trí đi du học Mỹ (sau này ông Trí về tiếp tục chiến đấu, lên Đại tá Tư lệnh Phó Sư Đoàn TQLC). Lúc đó tôi vẫn là Thiếu úy, nhưng không còn non nớt.

Hành Quân Bình Định và Những Kỷ Niệm Buồn

Trong cuộc hành quân lùng địch ngoài bờ biển Tân Niên Tây, Trung đội Thiếu úy Trần Xuân Quang chạm súng nhẹ du kích, khám phá khẩu 75 ly không giật. Đại đội được huy chương, về Mỹ Tho diễn hành. Anh em chỉ mong về phố ăn nhậu. Ngoài phố Mỹ Tho, tôi gặp Lê Hữu Cừ, bạn cùng khóa ở Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Cừ nói đã đổi qua Đại đội 7 Trinh Sát, hàng tuần phải bay thám thính với Mỹ. Chúng tôi ghé tiệm Tàu hàn huyên. Đó là lần gặp cuối cùng. Vài tháng sau, tôi nghe tin Cừ mất tích trong phi vụ thám sát, khi mới 24 tuổi, còn độc thân. Tôi chỉ xót xa cho bạn bè, không nghĩ đến phận mình. “Chí làm trai da ngựa bọc thây”.

Sau khi Tổng thống Diệm bị hạ sát, chương trình Ấp Chiến Lược bị bỏ rơi. Cộng sản Miền Bắc liên tục tuồn người và vũ khí vào Nam. VC quấy phá khắp nơi. Trong hành quân từ Mỹ Tho qua Bến Tre, khi vào một xóm Giồng, đơn vị tôi bị trực thăng Mỹ bắn nhầm, chết và bị thương 4-5 người. Tôi định cho lính bắn trả nhưng TĐT kịp ngăn chặn nhờ Cố vấn TQLC Hoa Kỳ liên lạc được. Đó là lần đầu tôi để ý đến Cố vấn Mỹ. Trước đó, năm 1963, Đại úy Cố vấn TQLCHK cho TĐ4 đã tử thương khi khách sạn Majestic bị VC đánh bom. Sau này, hành quân ở Tầm Vu, Vĩnh Long, anh chàng Cố vấn mới hớt hải chạy về BCH Tiểu đoàn kể thấy lính treo ngược chó cắt cổ, kêu dã man. Chúng tôi cười không nói gì làm anh ta càng bực. Hành quân kéo dài, thức ăn thiếu thốn. Chiều tối đó, bữa ăn của Thiếu tá Minh và Cố vấn có thêm món thịt ngon do đệ tử dọn lên. Ăn xong, chúng tôi nghịch ngợm hỏi Cố vấn ăn ngon không. Anh ta khen ngon. Chúng tôi hỏi biết thịt gì không. Anh lắc đầu. “Thì thịt con chó ông thấy tụi lính treo cổ đó”. Anh ta chạy ra sau ọe nhưng không ra. Đó hẳn là kỷ niệm khó quên.

Từ nhỏ học lịch sử Việt Nam, tôi ghét Tàu và Pháp. Tôi cũng không thích Mỹ vì là người ngoại quốc. Ý thức bài ngoại ăn sâu. Thế hệ trước tôi thích nói tiếng Tây. Mấy ông Tướng hay nói chuyện bằng tiếng Tây, đôi khi là Tây bồi. Lớp tôi chủ yếu học lý thuyết tiếng Anh, ít người nói được trước 1963. Hồi Trung học, tôi theo bạn học Anh văn với Mục sư Tin Lành nên cũng bập bẹ được. TQLC thường gửi SQ sang Mỹ học khóa Basic ở Quantico, Virginia, nên nhiều người giao tiếp được với Cố vấn Mỹ. Các SQ Mỹ sang VN thường không biết nhiều về đất nước này. Sau Thế chiến II, họ đến với tâm lý cao ngạo, nghĩ sẽ nhanh chóng dẹp tan “đám du kích mặc xà lỏn”. Mãi đến trận Bình Giả (31/12/1964), tôi mới có kỷ niệm sâu sắc về SQ Cố vấn TQLCHK.

Tương Tác Với Cố Vấn Hoa Kỳ: Tình Bạn và Khác Biệt

Những Tiếp Xúc Ban Đầu và Định Kiến

Người bạn Mỹ đầu tiên còn liên lạc đến nay là Trung úy Phil O’Brady (sau lên Đại úy ở Bình Giả rồi giải ngũ). Cuối 1964, khi tôi là Đại đội trưởng ĐĐ1/TĐ4 TQLC, Cố vấn Mỹ là Đại úy Frank Pete Eller. Một ngày ứng chiến ở Phi trường Biên Hòa, Cố vấn đưa tôi gặp một Trung úy TQLCHK cao to, mặt nghiêm nghị, tự xưng là Brady. Tôi chào lại “Tao là Thiếu úy Toàn”. Xuống xe tải, thầy trò tôi đi ngổn ngang. Brady chạy tới nói lớn: “Sao mày không tập họp Đại đội đi đều bước mà để lính đi lộn xộn vậy?”. Tôi nổi nóng định mắng nhưng nín cười khẩy, nghĩ thầm thằng này mới ra trường. Từ đó, anh ta lại thích tìm tôi nói chuyện. Tôi giải thích mình cũng từ Võ Bị ra, từng diễn hành Sài Gòn, cơ bản thao diễn là nghề, đã chiến đấu gần 2 năm. Tôi nói có thắc mắc gì cứ hỏi, điều quan trọng là cố giữ liên lạc với quân Mỹ để yểm trợ, tải thương, đừng bắn lầm.

Một hôm, Brady nói thấy lính ôm radio nghe nhạc gì lạ, tiếng e é lên xuống trầm bổng. Tôi giải thích đó là Cải Lương Vọng cổ, giống như Mỹ nghe Country Music. Ba-lô Brady luôn đầy đồ hộp Mỹ và chai Whisky dẹp.

Phil O Brady – Người Bạn Mỹ Đầu Tiên

Đến ngày TĐ chúng tôi nhảy trực thăng vào Bình Giả, Brady gần như không rời tôi. Tôi đùa: “Mày cao lớn, mang máy truyền tin ăng-ten cao, tránh xa tao ra kẻo VC bắn sẻ trúng tao”. Sau khi Thiếu tá Eller, cố vấn trưởng, bị thương lúc vào rừng Cao su Long Giao, Phil Brady lên thay. Anh đã nhanh chân thoát khỏi trận địa ngày 31/12/1964. Trở ra làng Bình Giả, anh cố gắng phối hợp quân bạn lập lại thế chủ động, tản thương. Anh cũng liều lĩnh theo quân bạn vào chiến địa tìm tôi nhưng không gặp, vì 3 ngày sau tôi mới một mình bò về làng với 3 vết đạn. Brady được gọi về Sài Gòn nhận Silver Star chữ V, thăng Đại úy. Tôi cũng mới đương nhiên lên Trung úy ngày 22/12/64 sau 2 năm ra trường. Hết nhiệm kỳ, Brady giải ngũ, rồi trở lại VN làm cho USAID, sau đó làm phóng viên NBC. Anh kết hôn với một cô gái Bình Dương và sống cùng đến nay.

Năm 1972, khi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu TQLCHK ở Quantico, tôi dự họp mặt cựu Cố vấn TQLCHK tại Woodbridge, VA. Tôi mới biết họ nghĩ chúng tôi đối xử không thân thiện, thậm chí thù nghịch (ví dụ Đại tá Nguyễn Thành Yên, Thiếu tá Hồ Quang Lịch cầm súng rượt đánh CV Mỹ; Đại tá Nguyễn Thế Lương bỏ đói Cố vấn; Trung tá Đỗ Hữu Tùng đuổi CV Mỹ về Sài Gòn…). Tôi đã giải thích trên diễn đàn, lấy trường hợp của tôi và Phil Brady làm ví dụ, và được vỗ tay tán thưởng. Gần 100 SQTQLC Hoa Kỳ từng làm Cố vấn ở VN, sau này có 52 người lên Tướng, gồm Đại tướng Boomer và Joe Hoar.

Joey Strickland và Những Ngày Cuối Cuộc Chiến

Suốt cuộc chiến, nhờ Phái bộ Cố vấn TQLCHK sát cánh, chúng tôi nhận viện trợ trực tiếp từ TQLC Hoa Kỳ, không qua Bộ Tổng Tham Mưu VNCH. Nguồn quân dụng ít bị thất thoát qua tham nhũng. Cố vấn TQLCHK cuối cùng của tôi là Trung tá Joey Strickland, bạn cùng khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Quantico. Sau mãn khóa, Joey tình nguyện sang VN, làm việc trong phái bộ Quốc Phòng HK bên cạnh Sư đoàn TQLCVN năm 1973, sau khi hệ thống Cố vấn Mỹ đã giải tán theo kế hoạch Việt Nam hóa. Khi ra thăm TQLC ở Quảng Trị, Strickland tìm đến tận nơi đóng quân của TĐ4TQLC ở Chợ Cạn để gặp tôi. Chúng tôi khá thân. Nhờ Strickland, tôi còn giữ được vài ảnh chụp ở Quảng Trị. Tôi thẳng thắn cho anh biết tình hình mặt trận, anh cũng không ngại cho biết tình hình chính trị Mỹ và việc rút quân. Dù vậy, tôi không tin CS có thể dễ dàng chiếm Miền Nam. Chúng tôi xác định sẽ đánh tới cùng. Tháng 10/1974, Strickland về Mỹ. Trước khi đi, anh ghé thăm, khuyên tôi lo cho gia đình vì chắc chắn Mỹ sẽ bỏ VN. Tôi không làm gì được vì còn trách nhiệm gần 800 lính. Bạn bè chúng tôi bàn tính cùng lắm sẽ tử thủ Miền Tây. Tất cả tan thành mây khói.

Sau khi vượt biên sang Mỹ tháng 5/1984, tôi gặp lại Joey Strickland qua chương trình 20/20 của ABC năm 1986 về cựu chiến binh VN. Từ Hawaii, Strickland bay qua Virginia, trao tôi bộ quân phục TQLCVN đầy đủ huy hiệu. Anh kể khi về làm việc ở Bộ Tư lệnh TQLCHK ở Washington DC, nghe tin Miền Nam thất thủ tháng 5/1975 từ viên Trung tá TQLCHK bàn giao chức vụ ở VN (người này về nước còn được thăng Đại tá). Tức giận vì hàng trăm ngàn lính VN bị bỏ rơi, Strickland xin giải ngũ về Hawaii học lại. Anh dò tin tôi và nghe nói tôi đã tự tử ngày 30/4/1975.

Trong suốt cuộc chiến, tôi chỉ có hai người bạn Mỹ đúng nghĩa: Phil Brady và Joey Strickland. Ngày nay, tại Viện Bảo Tàng TQLCHK ở Quantico, tổ chức thân hữu cựu Cố vấn Mỹ trưng bày nhiều di vật của TQLCVN. Một Trung tướng Mỹ, nguyên Tư lệnh SĐ3 Thủy Bộ Okinawa, đã đọc diễn văn tiếng Việt tại Đại hội TQLCVN ở Hoa Thịnh Đốn, bày tỏ sự cảm phục tinh thần chiến đấu của TQLCVN và nói đã học hỏi nhiều khi làm Cố vấn. Hầu hết Tướng lãnh Mỹ hiện nay đều từng tham chiến ở VN. Huy chương VNCH vẫn còn trên ngực áo đại lễ của họ. Quân đội Hoa Kỳ đã tổn thất hơn 58 ngàn quân trong cuộc chiến này.

Liên Miên Hành Quân và Bất Ổn Chính Trị

Sau đảo chính 1/11/63, TĐ chúng tôi thường bị điều về Sài Gòn ứng chiến sau mỗi cuộc hành quân do biến động chính trị. Một lần, mới về Hậu cứ Vũng Tàu 2 ngày, lại có lệnh khẩn cấp tập họp hành quân. Xe đơn vị phải chạy vòng quanh phố gọi lính. Cuối cùng chỉ gom đủ hai Đại đội tác chiến do tôi và bạn cùng khóa Nguyễn Đằng Tống chỉ huy. Xe tải đơn vị chở ra Phi trường Vũng Tàu. Chúng tôi lên máy bay C47 của Hàng Không Việt Nam. Thiếu tá Nho ra lệnh vắn tắt: “Về Sài Gòn bảo vệ Phi trường Tân Sơn Nhất chống đảo chánh”. Lính nghe vậy vui lắm. Xuống phi cơ, Tư lệnh Lê Nguyên Khang lệnh cho tôi trấn giữ cổng Phi Long, bạn tôi giữ Bộ Tư lệnh Không Quân. Do gấp gáp không kịp tiếp tế, chiều đó đại đội tôi ăn sandwich, uống coke do xe PX Mỹ cung cấp. Trung tá Nguyễn Ngọc Loan giao tôi dàn hỏa tiễn chống xe tăng của Trung tướng Dương Văn Đức. May mà các ông dàn xếp êm, nếu không tôi rất đau lòng khi phải bắn quân bạn.

Hai ngày sau, chúng tôi về lại Vũng Tàu. Vài hôm sau, TĐT lệnh tôi đem quân ra trấn đóng từ Bãi Dâu đến Bạch Dinh, Núi Lớn, canh gác vòng ngoài nơi các Tướng Đỗ Cao Trí, Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại tá Dương Ngọc Lắm bị giữ. Chiều đó, trực thăng chở Tướng Nguyễn Khánh đáp xuống sau Bạch Dinh. Chạng vạng tối, đi kiểm soát, tôi nghe tiếng cãi nhau bằng tiếng Pháp rất lớn từ chòi thưởng nguyệt. Tò mò lại gần, thấy Tướng Khánh và Tướng Trí đang chửi bới nhau. Vài ngày sau, lệnh rút quân về chuẩn bị hành quân phối hợp với TQLCHK. Chúng tôi tập trung ra Bãi Trước, xuống tàu LCU ra biển lên chiến hạm đổ bộ Mỹ. Vài giờ hải hành xuôi Nam, nhận kế hoạch hành quân hỗn hợp với SĐ 7 BB và Hải Quân VN.

Cuộc hành quân thủy bộ bất ngờ đánh thẳng vào Mật khu Thạnh Phú, Bến Tre. Đây là rẻo đất giáp biển, sông lạch bao quanh, rừng đước ngập nước như ốc đảo. Quân bộ khó tiến vào. Hơn 700 TQLC đổ bộ từ biển khiến địch bỏ chạy. Cơ sở hậu cần, bệnh xá VC còn nguyên. Vài tên VC mặc bà ba đen với AK47, CKC bị bắn hạ. Doanh trại tre lá trống vắng trên diện tích gần 10 km vuông. Trực thăng võ trang truy đuổi VC trong rừng đước. Đàn bò mấy trăm con chạy tán loạn. Đây là cơ sở VC nhận tiếp liệu từ Bắc vào. Làng cá ven biển không một bóng người. VC còn trồng lúa để nuôi quân và ngụy trang. Chiều đó, sau khi chiếm mục tiêu, thầy trò chúng tôi tự thưởng bữa thịt bò.

Hôm sau, đơn vị lội xuyên rừng đước ngập sình lầy, cả ngày mới tới giồng đất khô Giồng Trôm, Ba Tri. VC tránh né. Lội qua vườn dừa, dù uống nước dừa ngọt lịm, chúng tôi vẫn lả người vì then ngang, hố dọc, tiếng súng tỉa của du kích. Giày, quần áo ướt sũng. Đêm nằm võng mắc trên gốc dừa, quay quắt vì muỗi. Vài ngày sau, thu quân lên xe về Sài Gòn ứng chiến chống đảo chánh, chỉnh lý. Chỉ có anh em chúng tôi chịu gian khổ, hy sinh.

Trận Bình Giả – Thử Thách Sinh Tử

Thượng tuần tháng 10 năm 1964, TĐ chúng tôi lên Dĩ An, Biên Hòa, làm lực lượng trừ bị Quân đoàn 3 (Tư lệnh: Thiếu tướng Cao Văn Viên). Đầu tiên, thả vào Chiến khu D, rồi truy lùng địch về Tân Uyên, qua đồn điền cao su ông Nguyễn Đình Quát. Chạm súng lẻ tẻ du kích, vài người bị thương. Lội suốt tuần xuyên rừng, trảng cỏ, không gặp kháng cự lớn. Một tuần trước đó, toán OJT (On-the-Job Training) TQLCHK từ Okinawa đến thực nghiệm chiến trường, gồm Đại úy Pete Cook và 4 HSQ kỳ cựu (từng tham chiến Nam Hàn). Họ theo 4 Đại đội tác chiến, tỏ ra gan dạ, thích thú khi cùng lính VN xung phong. Chúng tôi bàng hoàng thấy các Ấp Chiến Lược thời TT Diệm đã tan rã sau 1/11/63 do VC công kích. Dân bỏ hoang vườn tược về thành phố. Quân VC với vũ khí Nga, Tàu tràn lan Miền Đông, qua biên giới Miên. Toán OJT dự kiến ở lại 1 tháng, được tiếp tế đầy đủ. Khi TĐ về Dĩ An, họ được xe đón về Sài Gòn nghỉ ngơi, rồi bất thần tập họp ra phi trường Biên Hòa ngày 23/12/1964, kịp trở lại tham gia hành quân sau những ngày xốn xang không khí Giáng Sinh.

Bối Cảnh và Diễn Biến Trước Trận Đánh

Tại Sài Gòn, các tướng lãnh mải mê quyền lực, của cải sau “cách mạng” 1/11/63. Báo Chính Luận đăng ảnh Tướng Tôn Thất Đính mặc đồ Nhảy Dù nhảy Be Bop (dù ông chưa từng ở Nhảy Dù, xuất thân HSQ bộ binh Pháp). Phòng trà, vũ trường mở lại. Các ông tướng bận tổ chức Giáng Sinh.

Trong khi đó, tại Ấp Chiến Lược Bình Giả (Long Giao, Phước Tuy), nơi giáo dân Công giáo di cư từ Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh sinh sống, quân chính quy VC bất ngờ tấn công tràn ngập. Chi khu gần đó bị kềm chặt. Dân quân tự vệ cùng Cha Xứ rút xuống hầm bí mật, vẫn giữ liên lạc nhờ dân che chở. Bình Giả là chướng ngại trên đường chuyển quân, tiếp liệu của VC từ biển vào mật khu. Lần này, chúng đưa cả Trung đoàn (thuộc Sư đoàn 9 mới thành lập của VC, do Trần Đình Xu chỉ huy) tiến chiếm. (Theo sách Dương Đình Lội, SĐ9 VC gồm 3 Trung đoàn 261, 262, 263, gồm quân Bắc xâm nhập và tuyển mộ tại Nam). Báo chí Sài Gòn đồn có tướng họ Dương chỉ huy, nhưng thực ra chỉ là Trung đoàn trưởng (sau bị bom giết nhờ dân chỉ điểm vị trí).

Tin từ hầm bí mật cho biết quân VC đông cả Trung đoàn. Nhưng cấp trên bận tiệc tùng, chia quyền, phó mặc hành quân cho cấp dưới là tay chân thân tín, thiếu kinh nghiệm. Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 3 lệnh 1 Thiết đoàn và 1 Đại đội BĐQ tùng thiết từ Phước Tuy lên giải vây. Đến Bình Ba, cách Bình Giả 10km, đoàn quân bị VC phục kích trong rừng cao su hai bên tỉnh lộ 15. Thiết giáp bị đánh tan, thương vong cả trăm người. Xe tăng bị B40 (vũ khí mới của Tàu) bắn cháy. Vũ khí, đạn dược bị thu. Tử sĩ bị lột cả quần áo, giày dép.

Hôm sau, TĐ4 TQLC, đơn vị trừ bị cuối cùng của Quân đoàn, được trực thăng Mỹ thả từng đại đội vào khu đất trống phía Đông Bình Giả. Từ sáng đến chiều mới xong. VC đã rút. Dân làng mừng rỡ đón TQLC, dúi thuốc lá, bánh, trái cây vào tay lính. Tình quân dân thắm thiết. Chúng tôi được lệnh tiến nhanh qua làng về hướng Bình Ba ngay trong đêm.

Ra ngã ba Tỉnh lộ 15 – Xuân Sơn, trời tối, Thiếu tá Nho, TĐT, cho bố trí nghỉ đêm. Đêm yên tĩnh. Sáng hôm sau, TĐ4 TQLC lấy trục Nam Tỉnh lộ 15, mở rộng hai cánh quân về Phước Tuy. Chưa đầy 2 giờ, ĐĐ1 phát hiện nơi Thiết giáp bị phục kích giữa vườn cao su bỏ hoang, cỏ cao ngang ngực. Mùi khét còn quyện sương mai. Xác xe M113 mở toang. Càng đại liên trơ trọi. Xác chiến binh nằm ngổn ngang, bị lột trần truồng. Lòng tôi đau xót, căm hận sự dã man của VC. Tôi lệnh bố trí quân, dùng poncho bọc xác tử sĩ. Lục soát không thấy VC. Tiểu đoàn chờ quân xa từ Phước Tuy lên tản thương (không ai sống sót). Sau bữa trưa dã chiến, tiếp tục mở đường về Bà Rịa gần 20km. Do lục soát sâu hai bên đường, về đến ven thành phố trời đã tối. Cả TĐ hơn 700 người vào sân banh nghỉ đêm, nấu nướng. Tôi ngồi nhìn lính lăng xăng mà thương xót. Sài Gòn vẫn tiệc tùng Giáng Sinh.

Rạng sáng hôm sau, lại lệnh mở đường từ Phước Tuy về Long Thành (QL4), dài 50km. Hành quân bộ mất cả tuần. Đi được một ngày xuyên rừng lội suối, lại lệnh tập trung ra QL chờ xe chở đến Long Thành. Nghỉ đêm ở vườn cao su ngoại ô. Hôm sau, hành quân truy lùng địch từ Long Thành xuyên rừng về hướng Rừng Sát. Đi vài giờ, lính bắn được con mễnh. Trưa, chuẩn bị vượt trảng trống vào xóm nhỏ bìa rừng. Bỗng súng VC nổ ran. Chúng tôi xung phong tấn công. Địch còn dưới giao thông hào nên cả tiểu đội VC bị bắn hạ tại chỗ. Trung sĩ Nguyễn Văn Trì, Tiểu đội trưởng ĐĐ tôi, tử thương (ông đang chờ về Dĩ An nghỉ phép thăm vợ mới sinh). Tôi đau lòng, tự hứa từ nay sẽ cho cấp dưới đi phép trước ngày hành quân. Chiếm xong mục tiêu, xin tản thương, bố trí qua đêm. Thịt mễnh chia cả đại đội nhưng không ai vui. Hôm sau, lên xe về lại Dĩ An ứng chiến. Chiến sự sôi động, phố xá vẫn tưng bừng. Ít ai quan tâm lính chết ở Bình Giả mấy ngày trước. Báo vẫn đăng ảnh các ông Tướng mặc Đại lễ ở Sài Gòn.

Người ta bảo TQLC là kiêu binh, về hậu cứ ăn nhậu đập phá. Ai trải qua gian khổ, sống chết mới hiểu sao họ bất mãn. Nhưng với tư cách chỉ huy, tôi biết lính trận không vô kỷ luật nếu chỉ huy làm gương. Những kẻ về quán xưng hùng lại hay nhát gan ngoài mặt trận. Tôi nhận ra ngay ai gan lì, ai trốn nhủi khi súng nổ. Đến nay, hơn 40 năm sau, tôi vẫn tự hào đã luôn lo lắng, che chở thuộc cấp, đàn em, dù hay chống cấp trên. Từ Long Thành về Dĩ An, tôi rủ hai bạn cùng khóa (ĐĐT ĐĐ2, ĐĐ4) đón xe đò về Sài Gòn chơi (trốn đơn vị). Vào hẻm Casino ăn, ra Quán Kem Mai Hương ngắm gái. Mới hơn năm đi trận mà trông già trước tuổi, trách nhiệm gần 140 lính (có cả HSQ tuổi cha chú). Lang thang xem phim “Cầu Sông Kwai”, lòng buồn man mác. Ăn tối rồi lên xe đò về.

Vừa về, Thiếu tá Nho gọi họp hành quân. TĐ4 TQLC, đơn vị trừ bị cuối cùng QĐ3, sẽ được trực thăng Mỹ đổ bộ sáng sớm mai giải tỏa Bình Giả, bắt liên lạc với TĐ 33 và 38 BĐQ đang bị VC cầm chân.

Cuộc Đổ Bộ và Tái Chiếm Bình Giả

Ngày 28/12/1964, TĐ 33 BĐQ được trực thăng vận vào Đông Nam Bình Giả sau tin VC chiếm đóng. Tin từ hầm bí mật báo VC đông cả Trung đoàn nhưng cấp trên không tin. BĐQ đổ bộ chỉ hơn 100 người, vũ khí cũ (Garant M1, Carbine). VC đào hầm bố trí sẵn ở vườn chuối giữa bãi đáp và hàng rào làng. Trực thăng vừa bay đi, BĐQ còn lóng ngóng thì VC xung kích. TĐ 33 BĐQ vừa chống trả vừa dạt vào làng, bám được Nhà Thờ Chính nhờ dân làng hỗ trợ tích cực (di tản thương binh, tiếp tế vũ khí rơi rớt, thức ăn). Dù gần trăm người bị thương (cả TĐT và Cố vấn Mỹ), BĐQ cầm cự qua đêm. Giá làng nào cũng chống Cộng quyết liệt như Bình Giả!

Ngày 29/12/64, TĐ 38 BĐQ được trực thăng vận xuống Tây Nam Bình Giả, tấn công bắt tay TĐ 33 nhưng bị địch cầm chân. Pháo binh 150 ly ở Phước Tuy quá xa, vô hiệu. Phi cơ cánh quạt từ Biên Hòa không yểm trợ được vì quân bạn quá gần dân và VC. Trước ngày hành quân, TĐT cho một số người đi phép. Riêng Đại đội tôi, Thiếu úy Trần Xuân Quang (Đại đội phó) và Thiếu úy Nguyễn Đình Định đi phép, thoát trận Bình Giả.

Ngày 29/12/1964, Sài Gòn đón Tết Dương Lịch, TĐ 4 TQLC được xe chở ra Phi trường Biên Hòa. Phi hành đoàn trực thăng Mỹ đã sẵn sàng. ĐĐ1 của tôi đi chuyến đầu, thiết lập an ninh bãi đáp phía Tây Bắc Bình Giả. Mỗi đợt chỉ chở 1 Đại đội (120 người). Mỗi phi vụ từ Biên Hòa mất 1 tiếng. 5 Đại đội phải chờ 5 giờ mới đủ quân. Tôi linh cảm trận này dữ dội. Từ cuối tháng 11, tôi đã lệnh các SQ (5 Thiếu úy) mang Carbine thay vì Colt 45. Riêng tôi mang AR15 mới được Cố vấn TQLCHK đưa thử nghiệm. Tại phi trường, tôi tập họp Đại đội, cử Thiếu úy Nguyễn Văn Song kiêm Đại đội phó (sau này anh hy sinh ở Bình Giả khi đang cầm Carbine điều động trung đội). Ngồi trên trực thăng nhìn rừng xanh bao la, lòng tôi rung động nhớ quê hương, nhớ thơ Chinh Phụ Ngâm, thơ Epicure. Tôi mới 24 tuổi, chỉ huy 120 lính. Ai cũng chết một lần. Chúng tôi vào trận với lãng mạn Tự Lực Văn Đoàn, thơ Thế Lữ, Quang Dũng.

Trực thăng đổ ĐĐ tôi xuống vườn chuối ngoài vòng đai Bình Giả (Tây Bắc), trong khi TĐ 38 BĐQ đang ở Tây Nam. Đại đội bung ra mở rộng bãi đáp, hạ cây chuối, đào hầm. Không thấy VC. Sau đợt đổ bộ BCH Tiểu đoàn, Phil Brady chạy lên chuyển lệnh mở đường vào làng. Đúng lúc, vài thanh niên chạy ra từ đường mòn xuyên bãi mìn, la lớn: “Đừng bắn! Dân làng đây. Việt Cộng đang rút!”. Chúng tôi theo họ vào làng, bung rộng về Nhà Thờ Chính. BĐQ vượt lên bắt tay. TĐ4 TQLC và BĐQ cùng mở rộng cánh quân, tái chiếm Bình Giả. Không gặp kháng cự. VC đã lặng lẽ rút từ sáng sớm về hướng Xuân Sơn và rừng cao su Quảng Giao. Dân làng túa ra reo hò.

Trực thăng Mỹ đáp xuống với đám phóng viên, nhiếp ảnh viên ngoại quốc. Ra bãi đáp nơi TĐ33 BĐQ bị phục kích hôm trước, tôi bàng hoàng thấy xác tử sĩ bị lột trần. Một phóng viên Mỹ lia máy ảnh chụp, tôi nổi nóng định gạt tay. Phil Brady chặn lại: “Để tụi nó làm công việc của tụi nó”. Từ đó, chữ “Business” ám ảnh tôi. Sau này ở Mỹ, tôi mới thấy dạy học, Hướng đạo, từ thiện, truyền đạo, chiến tranh… đều là “Business”. Giờ đọc báo tiếng Việt ở Mỹ, tôi bật cười thấy nhiều người tự xưng Phóng viên Chiến trường dù chỉ quanh quẩn Sài Gòn, Đà Nẵng viết bài kiếm tiền. Phil Brady chắc cũng xúc động mạnh lần đầu thấy cảnh chết chóc như vậy.

Giao Tranh Ác Liệt và Tổn Thất

Sau khi tản thương, dọn dẹp chiến trường, TĐ4 TQLC phối hợp TĐ38 BĐQ rải quân phòng thủ cùng dân làng. Nửa khuya 30/12/1964, tiếng phèng la, còi trống vang dậy. Tiếng súng nổ rền từ phía Đông. VC bất thần tấn kích. TQLC, BĐQ cùng dân làng tỏa ra phản công quyết liệt. Vài nhà sát hàng rào bị cháy, dân làng không nao núng cứu hỏa giữa làn đạn. Trực thăng võ trang Mỹ từ Vũng Tàu bay lên yểm trợ dữ dội. Sau gần một giờ giao tranh, VC rút lui. Trực thăng Mỹ truy đuổi. Do thiếu kinh nghiệm, một trực thăng Mỹ với 4 phi hành đoàn bị trúng đạn VC rơi trong khu vườn Cao su Quảng Giao.

(Hồi ký gốc còn tiếp phần diễn biến sau khi trực thăng Mỹ rơi và trận chiến ngày 31/12/1964, dẫn đến thương vong nặng nề cho TĐ4 TQLC và tác giả bị thương nặng, lạc đơn vị)

Giới thiệu tác giả Trần Ngọc Toàn

Trần Ngọc Toàn, tác giả hồi ký “Nửa Đời Chinh Chiến”, là cựu Trung tá thuộc Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Ông chia sẻ, ở tuổi 68 (thời điểm viết lời mở đầu), nhìn lại cuộc đời với 15 năm trong quân ngũ VNCH, gần 9 năm tù cải tạo sau 1975, và hơn 20 năm lao động tại Mỹ sau khi vượt biên năm 1984. Xuất phát từ nỗi phẫn uất và mong muốn ghi lại sự thật, ông đã viết 3 tập truyện ngắn trước đó. Ông bày tỏ sự không hài lòng với các hồi ký của một số tướng lãnh, viên chức VNCH mà ông cho là thiếu trung thực, chỉ nhằm “chạy tội”.

Thế hệ của ông lớn lên tại Miền Nam trong chế độ độc lập, dân chủ đầu tiên sau thời Pháp thuộc và quân chủ nhà Nguyễn. Ông viết về thế hệ mình – những người cùng chung nhịp suy nghĩ, trái tim rực lửa, cùng gánh vác những nặng nề của thời cuộc, bị lợi dụng và chịu đựng. Đặc biệt, ông muốn dành những trang viết cho bạn bè, đồng đội hơn là cho bản thân. Nhìn thế hệ con cháu lớn lên vô tư ở nước ngoài, ông muốn kể lại 15 năm quân ngũ để chúng không quên sự hy sinh của khoảng 300 ngàn chiến sĩ VNCH đã ngã xuống và hàng trăm ngàn thương phế binh còn lại. Ông tin rằng nhờ sự hy sinh đó mà thế hệ sau mới có tương lai tốt đẹp. Hơn thế nữa, ông muốn chứng minh rằng cái gọi là “Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” mới chính là “Quân Ngụy”.

Đánh giá sách “Nửa Đời Chinh Chiến”

Hồi ký “Nửa Đời Chinh Chiến” của Trần Ngọc Toàn là một tài liệu có giá trị lịch sử và nhân văn sâu sắc, cung cấp góc nhìn trực diện và chân thực từ một sĩ quan cấp chỉ huy tiểu đoàn TQLC VNCH – một trong những đơn vị thiện chiến nhất của quân đội này.

  • Tính chân thực và chi tiết: Tác giả kể lại các sự kiện, trận đánh (đặc biệt là trận Bình Giả và cuộc đảo chính 1963) với nhiều chi tiết sống động, từ chiến thuật, trang bị, tâm lý binh sĩ đến những tương tác đời thường và cả những mặt trái, bất cập trong nội bộ quân đội và chính trường Miền Nam thời bấy giờ.
  • Góc nhìn cá nhân độc đáo: Không chỉ là bản tường thuật các sự kiện, cuốn sách còn là dòng tâm tư, suy ngẫm của một người lính trẻ tuổi phải đối mặt với chiến tranh, cái chết, trách nhiệm và những biến động chính trị phức tạp. Tác giả không ngần ngại bày tỏ cảm xúc cá nhân, sự phẫn uất, lòng tiếc thương đồng đội và cả những đánh giá thẳng thắn về cấp trên, về đồng minh Hoa Kỳ.
  • Giá trị lịch sử: Cung cấp những thông tin quý giá về tổ chức, hoạt động của TQLC VNCH, về thực trạng chiến trường ở nhiều địa bàn khác nhau, về mối quan hệ phức tạp giữa quân đội VNCH và cố vấn Mỹ, cũng như ảnh hưởng của các biến cố chính trị lên tinh thần và hiệu quả chiến đấu của binh sĩ.
  • Giọng văn: Mộc mạc, thẳng thắn, đôi khi pha chút lãng mạn của tuổi trẻ nhưng cũng đầy cay đắng, chua xót khi đối diện với sự thật khốc liệt của chiến tranh và sự sụp đổ của lý tưởng.

Tuy nhiên, cần lưu ý đây là hồi ký mang đậm dấu ấn cá nhân, phản ánh góc nhìn và quan điểm của tác giả thuộc phía VNCH. Người đọc cần tiếp cận với tinh thần cởi mở, đối chiếu với các nguồn tài liệu khác để có cái nhìn đa chiều và khách quan hơn về giai đoạn lịch sử này. Dù vậy, “Nửa Đời Chinh Chiến” chắc chắn là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn tìm hiểu sâu hơn về cuộc chiến Việt Nam từ phía những người lính trực tiếp tham chiến.

Tài liệu tham khảo

Nội dung bài viết chủ yếu dựa trên hồi ký “Nửa Đời Chinh Chiến” của tác giả Trần Ngọc Toàn, Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, được đăng tải trên các trang mạng của cựu quân nhân VNCH.

Tải sách “Chiến lược biển từ tầm nhìn của Tướng Giáp đến trách nhiệm của người lính nơi đầu sóng ngọn gió PDF”

Để tìm hiểu sâu hơn về các khía cạnh chiến lược quân sự, đặc biệt là chiến lược biển của Việt Nam và vai trò của người lính trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo, độc giả có thể tìm kiếm tài liệu “Chiến lược biển từ tầm nhìn của Tướng Giáp đến trách nhiệm của người lính nơi đầu sóng ngọn gió PDF” trên các nguồn lưu trữ sách điện tử uy tín. Việc tham khảo các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu kết hợp với những hồi ký chân thực như “Nửa Đời Chinh Chiến” sẽ mang lại cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về lịch sử quân sự và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc.

(Lưu ý: Hãy tìm kiếm các nguồn cung cấp PDF hợp pháp và tôn trọng bản quyền tác giả khi tải và sử dụng tài liệu.)

TẢI SÁCH PDF NGAY