Nhiều quan điểm về Phật giáo, bao gồm cả những ý kiến được cho là của học giả Nguyễn An Ninh trong tác phẩm “Phê bình Phật giáo”, đã được trình bày trên một số tạp chí chuyên ngành. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu sâu sắc về chủ đề này, đặc biệt là các tài liệu liên quan như Tôn Giáo Nguyễn An Ninh PDF, bài viết này sẽ đi sâu phân tích và phản biện các luận điểm phê bình, làm sáng tỏ giáo lý Phật giáo dựa trên nguồn gốc và các nghiên cứu khoa học, triết học uy tín, cung cấp cái nhìn toàn diện và chính xác cho độc giả.

Các tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo và Công tác Tôn giáo tại Hà Nội từng đăng tải những quan điểm gây tranh cãi về Phật giáo, trong đó có những nhận định được Đỗ Thị Hoà Hới dẫn lời Nguyễn An Ninh trong bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 1-2004. Những ý kiến này cho rằng Phật giáo là duy tâm, mạo danh khoa học và Niết Bàn là hư ảo. Cụ thể:

  • Phật giáo là duy tâm: Quan điểm này cho rằng vì Phật giáo duy tâm nên phương pháp của Đức Phật không thể cứu khổ con người, và lý luận Vô thường tuyệt đối hóa sự biến thiên là sai lầm nhận thức luận duy tâm.
  • Phật giáo mạo danh khoa học: Ý kiến cho rằng phong trào Chấn hưng Phật giáo đã mạo danh khoa học để biện hộ cho Phật giáo.
  • Niết Bàn là hư ảo: Nhận định rằng bản chất của tôn giáo (trong đó có Phật giáo) là hướng tới sự an toàn, yên bình một cách hư ảo, không ở trần gian mà ở Thiên Đường, cõi Niết Bàn xa xôi.

Trước những quan điểm này, cần có sự phản biện và giải thích thấu đáo để làm sáng tỏ vấn đề.

Phật giáo có phải là duy tâm?

Phương pháp cứu khổ của Đức Phật là bất bạo động, dựa trên giáo dục và cảm hóa bằng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh, hướng con người tránh ác làm thiện để xây dựng thế giới hòa bình, công bằng, hạnh phúc ngay trong hiện tại và tương lai.

Theo Phật giáo nguyên thủy (Theravada), từ thế kỷ thứ 6 TCN đến nay, Phật giáo là Trung Đạo (Majjhima-patipada). Sau khi thành đạo, Đức Phật giảng bộ kinh đầu tiên tại vườn Lộc Uyển với ý nghĩa chủ yếu là Trung Đạo nhằm hóa giải mọi quan điểm cực đoan. Về vật chất, tránh sống quá khổ hạnh hay quá lạc thú; về tinh thần, tránh định kiến sai lệch và tư tưởng cực đoan như Duy vật, Duy tâm… vì bất kỳ “Duy” nào cũng là cực đoan và phiến diện. Giáo sư Richard A. Gard trong cuốn “Đạo Phật” cũng ghi nhận Trung Đạo là giáo lý căn bản, xưa kia nghĩa là ở giữa duy vật và duy lý (duy lý đồng nghĩa với duy tâm).

Như vậy, sống và làm việc cần toàn diện, cân đối theo chuẩn mực Trung Đạo, nền tảng là Bát Chính Đạo với cốt lõi Giới, Định, Tuệ. Để có trí tuệ viên mãn tìm hiểu chân lý sự vật, mỗi người cần trải qua 3 quá trình tu dưỡng thân tâm mật thiết: Giới luật, Thiền định, và Trí tuệ. Thực hành giới luật sinh thiền định cân bằng, thiền định sinh trí tuệ trong sáng, từ đó đạt giác ngộ chân lý.

Còn về Đại Thừa Phật giáo (Mahayana), phát triển từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Tây lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh bấy giờ. Các vị đại sư như Mã Minh, Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân đã phương tiện tạo thêm giáo lý mới dựa trên các bộ Kinh mới biên soạn như Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Lăng Già… mang ý nghĩa Duy Tâm, Duy Thức với quan niệm chung: Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy thức. Rõ ràng, đây không phải Phật giáo chính thống nguyên thủy. Tuy nhiên, Đại Thừa vẫn phát triển tại nhiều nước.

Theo Phật giáo, thế giới hữu vi (hiện tượng) thuộc nhân quả sinh diệt liên tục có ba đặc tính chung (Tam Pháp Ấn): vô thường (anicca), khổ não (dukkha), vô ngã (anatta) cho cả Sắc pháp (vật lý), Tâm pháp (tâm lý) và Bất tương ưng hành pháp.

Vô thường

Vô thường là quy luật chuyển động chung của thế giới và vạn vật trong thế giới hiện tượng, nhân quả này. Thuận duyên thì tiến lên, nghịch duyên thì lùi xuống, nhưng luôn chuyển động. Sự chuyển động vô thường diễn ra từng giây phút qua các chu kỳ: Thành, trụ, hoại, không (thế giới); Sinh, trụ, dị, diệt (vạn vật); Sinh, lão, bệnh, tử (con người, động vật). So với thuyết Tiến hóa của Darwin chỉ nói về động vật, quy luật vô thường của Phật giáo mang tính khách quan và bao quát hơn.

Khổ Não hay Bất Toàn

Dukkha không chỉ là Khổ đau mà còn là Bất toàn (Imperfection). Loài hữu tình (người, động vật) có tình thức nên cảm nhận khổ đau. Loài vô tình (thực vật, khoáng vật) không có tình thức nên chỉ ở trong trạng thái Bất toàn, không trọn vẹn (không Chân, Thiện, Mỹ). Nguyên nhân chính của khổ đau con người là tham dục mù quáng (vô minh) dẫn đến hành động bất chính (hành nghiệp), kết quả là khổ: Hoặc + Nghiệp = Khổ. Ngược lại, giác ngộ sáng suốt cộng với hành động chân chính (đạo hạnh) sẽ đạt hạnh phúc an vui: Giác + Hành = An Lạc.

Ví dụ: Người lái xe say rượu, không chuẩn gây tai nạn (Hoặc + Nghiệp = Khổ). Người lái xe sáng suốt, chuẩn thì đi đến đích tốt đẹp (Giác + Hành = An Lạc).

Vô Ngã

Bản chất con người và vạn vật chỉ là tương duyên, tương đối, không có thực thể riêng tuyệt đối mà là hợp thể các yếu tố. Ví dụ: Con người là hợp thể Sắc pháp (tinh cha, huyết mẹ) và Tâm pháp (cảm giác, tri giác, ý giác, thức giác). Nước là hợp thể hai nguyên tử khinh khí và một nguyên tử dưỡng khí (H2O). Vô Ngã còn hàm chứa tinh thần vị tha, quên mình vì cộng đồng, dấn thân cứu khổ độ sinh.

Phật giáo có mạo danh khoa học?

Một số ý kiến, bao gồm cả lời dẫn của Đỗ Thị Hoà Hới về Nguyễn An Ninh, cho rằng Phật giáo mạo danh khoa học. Thực ra, Phật giáo đã đi trước khoa học phương Tây hơn 2.000 năm và không cần mạo danh hay lợi dụng khoa học. Ngược lại, ở thế kỷ 20, qua sự tiếp cận giữa Phật giáo và khoa học, nhiều người nhận định Phật giáo “hợp khoa học” vì không giáo điều, không chấp nhận Thượng Đế. Sự nhận định này cần chính xác, vô tư, khách quan.

Nhiều học giả Đông Tây đã chứng minh sự tương đồng hoặc “hợp” giữa Phật giáo và khoa học:

  • Phương Đông: Lương Khải Siêu và Vương Tiểu Từ (Trung Quốc) nói Phật giáo hợp khoa học.
  • Phương Tây:
    • Bác sĩ Paul Dahlke (Đức) viết sách “Phật giáo và Khoa học” (1913).
    • G. Constant Lounsbery (Pháp) viết bài “Khoa học làm sáng tỏ thuyết Vô ngã của Phật giáo” (1927).
    • André Bareau (Pháp) trong bài “Tư tưởng Phật giáo ngày xưa rất phong phú và mới Lạ” (1959) chỉ ra sự tương đồng giữa đơn vị thế giới Đại Thiên Thế Giới (một tỷ thế giới, giống Thiên Hà) và hình thể nguyên tử tính trong Luận Câu Xá với khoa học hiện đại. Luận Câu Xá mô tả nguyên tử có hình thể lập phương ba chiều và chuyển động trong thời lượng ngắn nhất (sát-na).
    • Sách giáo khoa “Sources of Indian Tradition” của Đại học Columbia (Mỹ) ghi nhận Kinh Lượng Bộ nhấn mạnh tính chất nguyên tử của các yếu tố trong chuỗi, vật thể cũ mất đi thay bằng vật mới do vật cũ sinh ra. Quan điểm này giống thuyết Lượng Tử của Max Planck.
    • Albert Einstein (Mỹ), nhà khoa học vĩ đại, phát biểu tại Liên Hiệp Quốc rằng tôn giáo tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt qua Thượng Đế, tránh giáo điều và thần học, bao gồm cả tự nhiên và tâm linh, xây dựng trên chứng nghiệm về sự thống nhất của vạn vật. Ông nói: “Phật giáo đáp ứng được điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của Khoa học đương đại, thì tôn giáo ấy phải là Phật giáo. Phật giáo không cần phải xét lại quan điểm của mình để theo khoa học vì Phật giáo bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học.”
    • Thuyết Tương đối (E=mc²) của Einstein chứng minh sự tương xứng Khối và Năng lượng, tương đồng với Sắc tức thị Không – Không tức thị Sắc (S=R).
    • Về tâm lý học, Christmas Humphreys (Hội trưởng Hội Phật giáo Luân Đôn) trong sách “Buddhism” ghi nhận Tiềm Thức hay Tạng Thức (Bhavanga, Alaya-Vijnana) của Phật giáo là tiền thân của Vô Thức trong tâm lý học phương Tây.

Niết Bàn của Phật giáo có phải là hư ảo, xa xôi?

Quan điểm cho rằng Niết Bàn (Nibbana, Nirvana) của Phật giáo là hư ảo và xa xôi cần được giải thích lại cho đúng nghĩa. Niết Bàn là Hán âm, có nghĩa là giải thoát, tịch diệt, thổi tắt ngọn lửa tham dục, sân hận, si mê, không còn khổ đau hiện tại và chấm dứt sinh tử đời sau.

  • Thể tính Niết Bàn: An tịnh (Santi), an vui, trong sáng.
  • Chủng loại Niết Bàn:
    1. Hữu Dư Y Niết Bàn: Đạt giải thoát, an vui ngay trong đời sống hiện tại khi còn thân người. (Ví dụ: Đức Phật thành đạo năm 35 tuổi).
    2. Vô Dư Y Niết Bàn: Đạt giải thoát, an vui sau khi chết, không còn thân người. (Ví dụ: Đức Phật nhập Niết Bàn năm 80 tuổi).
    3. Vô Trụ Xứ Niết Bàn: Trạng thái của Bồ Tát Đại Thừa, không trụ vào Niết Bàn riêng mình vì lòng từ bi cứu độ chúng sinh (ví dụ: Bồ Tát Địa Tạng).
  • Hành tướng giải thoát Niết Bàn:
    1. Chân Không Giải Thoát: Giải thoát hết tham, sân, si.
    2. Vô Tướng Giải Thoát: Giải thoát không còn tướng trạng tham, sân, si.
    3. Vô Nguyện/Vô Tác Giải Thoát: Giải thoát không còn vướng mắc ảnh hưởng tham, sân, si.
  • Đặc tính Niết Bàn (Niết Bàn tứ đức):
    1. Chân thường: Hòa bình, an ninh thực sự, không loạn lạc chiến tranh.
    2. Chân lạc: Hạnh phúc, an vui thực sự, không đau khổ vật chất, tinh thần, thân, tâm.
    3. Chân ngã: Tự do, tự tại thực sự, không cố chấp cái tôi ích kỷ, không vướng mắc sai lầm.
    4. Chân tịnh: Môi trường sống trong sáng thực sự, không ô nhiễm sinh thái.

Phật tử cần cùng nhau chuyển hóa thế giới vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh thành thế giới chân thường, chân lạc, chân ngã, chân tịnh. Đó là bốn thuộc tính cụ thể của Niết Bàn.

Về thế giới Cực Lạc, Tịnh Độ, An Lạc, An Dưỡng của Đại Thừa Phật giáo cũng có hai loại: ở đời hiện tại và sau khi chết. Kinh điển Đại Thừa thường nhấn mạnh “Cực lạc đương xứ, Tịnh Độ hiện tiền!” – Cực lạc ở ngay nơi đây và Tịnh Độ ở ngay hiện tại, không phải hư ảo xa xôi. Muốn đạt được điều này, cần tích cực tu dưỡng thân tâm hướng thiện.

Giới thiệu tác giả bài viết gốc

Bài viết gốc này được soạn bởi Tỷ Khiêu, Bồ Tát Giới Thích Đức Nghiệp tại Tổ Đình Vĩnh Nghiêm, TP. Hồ Chí Minh vào Phật lịch 2552 (Dương lịch 2008). Tác giả đã dựa trên nền tảng giáo lý Phật giáo và các tài liệu tham khảo uy tín để đưa ra các luận điểm phản biện, nhằm làm sáng tỏ những hiểu lầm về Phật giáo.

Đánh giá về các quan điểm phê bình và phản biện

Bài viết đã phân tích kỹ lưỡng ba luận điểm phê bình chính về Phật giáo: duy tâm, mạo danh khoa học, và Niết Bàn hư ảo. Thông qua việc trình bày rõ ràng về Trung Đạo, Tam Pháp Ấn (Vô thường, Khổ não, Vô ngã), Giới-Định-Tuệ, và bản chất, các loại Niết Bàn cùng Tứ đức Niết Bàn, tác giả đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc và chính xác về giáo lý Phật giáo nguyên thủy và Đại Thừa. Đặc biệt, phần đối chiếu Phật giáo với các phát kiến khoa học và quan điểm của các nhà khoa học nổi tiếng như Albert Einstein đã bác bỏ mạnh mẽ nhận định Phật giáo mạo danh khoa học, thay vào đó làm nổi bật sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa triết lý Phật giáo và khoa học hiện đại. Về Niết Bàn, việc phân tích các loại và đặc tính của Niết Bàn cho thấy đây không phải là khái niệm hư ảo mà là trạng thái giải thoát, an vui có thể đạt được ngay trong hiện tại hoặc ở đời sau, đồng thời chỉ ra mục tiêu chuyển hóa thế giới thực tại thành cõi Tịnh Độ ngay “đương xứ”. Bài viết đã thành công trong việc làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến Phật giáo được đặt ra, dựa trên lập luận chặt chẽ và dẫn chứng từ kinh điển cũng như các công trình nghiên cứu.

Tài liệu tham khảo

  1. Kinh Chuyển Pháp Luân.
  2. Kinh Đại Niết Bàn.
  3. Luận Câu Xá.
  4. Luận Thành Thật.
  5. Présence du Bouddhisme under the direction of René de Berval.
  6. Sources of Indian Tradition, Columbia University Press, by Théodore de Bary.
  7. Buddhism by Dr. Richard A. Gard.
  8. A Popular Dictionary of Buddhism by Christmas Humphreys.
  9. Buddhism by Christmas Humphreys, p.77.

Tìm đọc tài liệu về Tôn giáo Nguyễn An Ninh PDF và các bài viết liên quan

Để tìm hiểu sâu hơn về chủ đề Tôn giáo Nguyễn An Ninh PDF, quan điểm “Phê bình Phật giáo” của Nguyễn An Ninh, cũng như các bài viết phản biện chi tiết như nội dung trên, bạn đọc có thể tìm kiếm các tài liệu học thuật về Nguyễn An Ninh, các ấn phẩm của các tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Công tác Tôn giáo, hoặc các sách, bài nghiên cứu về triết học Phật giáo và sự đối thoại giữa Phật giáo với khoa học. Các bản PDF liên quan có thể được tìm thấy thông qua các kho lưu trữ số hoặc các trang web chuyên ngành.

TẢI SÁCH PDF NGAY