Contents
- Phần Thứ Nhất: Cội Nguồn Sức Mạnh – Đảng Lãnh Đạo Đấu Tranh Giành Độc Lập, Thống Nhất Đất Nước (1930 – 1975)
- Phần Thứ Hai: Đảng Lãnh Đạo Đất Nước Đổi Mới, Hội Nhập và Phát Triển
- Giá trị của việc tìm hiểu qua tài liệu Anh hùng Việt Nam PDF
- Phần Thứ Ba: Phát Huy Truyền Thống Yêu Nước, Quyết Tâm Thực Hiện Mục Tiêu Phát Triển Đất Nước
- Tổng kết và Niềm Tin Tương Lai
- Tải Tài liệu Anh hùng Việt Nam PDF
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam là bản hùng ca về lòng yêu nước, ý chí kiên cường chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước. Truyền thống quý báu này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là niềm tự hào và là nguồn sức mạnh nội sinh vô tận. Trong dòng chảy lịch sử ấy, biết bao thế hệ người Việt Nam đã anh dũng hy sinh, cống hiến, viết nên những trang sử vàng chói lọi. Ngày nay, việc tìm hiểu về những tấm gương đó, như thông qua các tài liệu Anh Hùng Việt Nam Pdf, là cách để thế hệ trẻ kết nối với quá khứ hào hùng, bồi đắp lòng tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm với tương lai. Bài viết này, dựa trên những cột mốc lịch sử quan trọng của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sẽ cùng bạn đọc nhìn lại những chặng đường vẻ vang, qua đó thấy được tầm vóc và ý nghĩa của việc tìm hiểu về các anh hùng dân tộc.
Phần Thứ Nhất: Cội Nguồn Sức Mạnh – Đảng Lãnh Đạo Đấu Tranh Giành Độc Lập, Thống Nhất Đất Nước (1930 – 1975)
Lịch sử ghi nhận, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược, tinh thần yêu nước của nhân dân ta lại trỗi dậy mạnh mẽ. Nhiều phong trào đấu tranh với các khuynh hướng khác nhau đã nổ ra, từ con đường của các sĩ phu đến khởi nghĩa nông dân và cách mạng tư sản. Dù kiên cường và đầy tâm huyết, song do hạn chế về đường lối, các phong trào này chưa thành công. Bối cảnh đó đòi hỏi một con đường cứu nước mới.
Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản đúng đắn. Sau nhiều năm hoạt động, Người đã chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của một đảng cách mạng. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập tại Hồng Kông (Trung Quốc), đánh dấu bước ngoặt lịch sử, chấm dứt khủng hoảng về đường lối cách mạng. Sự ra đời của Đảng là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Luận cương chính trị đầu tiên đã xác định con đường cách mạng, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn bó máu thịt với nhân dân, chỉ trong 15 năm, cách mạng Việt Nam đã trải qua ba cao trào lớn: Cao trào 1930-1931 (đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ Tĩnh), Cao trào dân sinh, dân chủ (1936-1939), và Cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945). Khi thời cơ chín muồi, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 02/9/1945. Đây là giai đoạn lịch sử sản sinh ra vô vàn tấm gương anh hùng, những câu chuyện mà ngày nay nhiều người tìm kiếm qua các tài liệu dạng “anh hùng việt nam pdf”.
Ngay sau khi thành lập, nước Việt Nam non trẻ đối mặt với thù trong, giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, bảo vệ chính quyền và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh bại các kế hoạch xâm lược của địch. Đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh. Giai đoạn này tiếp tục tô thắm thêm trang sử vàng của dân tộc với những chiến công và hình tượng anh hùng bất tử.
Từ 1955 đến 1975, đất nước bị chia cắt. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường giành độc lập, thống nhất đất nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975. Thắng lợi này là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam, một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. Những câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy sinh trong giai đoạn này thường là nội dung chính trong các tìm kiếm về “anh hùng việt nam pdf”.
Sau thống nhất, dân tộc ta lại phải đối mặt với hậu quả chiến tranh nặng nề và những cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới. Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân vừa khôi phục kinh tế – xã hội, vừa bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Nhìn lại chặng đường 1930-1975, chúng ta vô cùng tự hào về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp mà đỉnh cao là Điện Biên Phủ, và thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất non sông. Mỗi thắng lợi đều gắn liền với sự hy sinh xương máu của biết bao anh hùng, liệt sĩ.
Phần Thứ Hai: Đảng Lãnh Đạo Đất Nước Đổi Mới, Hội Nhập và Phát Triển
Sau ngày thống nhất, đất nước đứng trước vô vàn khó khăn từ hậu quả 30 năm chiến tranh. Đảng đã lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả, thực hiện các kế hoạch 5 năm (1976-1980, 1981-1985) để khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội. Hạ tầng dần được phục hồi, kinh tế nhà nước và tập thể được củng cố.
Tuy nhiên, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ những bất cập, dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội. Trước yêu cầu mới và trên cơ sở tổng kết thực tiễn sáng tạo của nhân dân, Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI (tháng 12/1986), với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra một thời kỳ phát triển mới.
Từ đó đến nay, Đảng đã không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, thể hiện qua Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, cùng các văn kiện Đại hội Đảng. Vượt qua thử thách từ sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Nhiều nghị quyết quan trọng về các vấn đề cơ bản, hệ trọng đã được ban hành.
Đảng ta đã hình thành nhận thức tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng: một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế.
Để đạt mục tiêu đó, các nhiệm vụ trọng tâm được xác định: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hoá, con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; thực hiện đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hội nhập quốc tế; xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Đảng ta nhận thức rõ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua chiến tranh tàn phá, lại bị các thế lực thù địch chống phá, Việt Nam phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, hình thức đan xen. “Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là bỏ qua chế độ áp bức, bóc lột, những thể chế chính trị không phù hợp, chứ không phải bỏ qua thành tựu văn minh nhân loại mà chủ nghĩa tư bản đạt được, việc kế thừa phải có chọn lọc.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một đột phá lý luận sáng tạo của Đảng, thành quả của gần 40 năm đổi mới. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành theo quy luật thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là kiểu kinh tế thị trường mới, vừa tuân theo quy luật thị trường, vừa dựa trên và được chi phối bởi nguyên tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội (thể hiện ở sở hữu, quản lý, phân phối). Nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, hợp tác được củng cố; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích. Phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đóng góp vốn và các nguồn lực khác, kết hợp với hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách.
Một đặc trưng quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước phát triển. Không chờ kinh tế phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội, không “hy sinh” công bằng xã hội vì tăng trưởng đơn thuần. Mỗi chính sách kinh tế hướng tới phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội tạo động lực phát triển kinh tế. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững.
Văn hoá được coi là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước. Phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là định hướng căn bản. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo; kế thừa truyền thống tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Con người giữ vị trí trung tâm; phát triển văn hoá, xây dựng con người là mục tiêu, động lực; giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ; thực hiện bình đẳng giới.
Xã hội xã hội chủ nghĩa hướng tới giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên lợi ích chung hài hoà lợi ích chính đáng của con người, cần và có điều kiện xây dựng đồng thuận xã hội. Mối quan hệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân là thống nhất về mục tiêu, lợi ích. Mọi chủ trương, chính sách đều vì lợi ích, hạnh phúc của nhân dân. Cơ chế vận hành là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất, mục tiêu, động lực; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, dựa trên liên minh công – nông – trí thức do Đảng lãnh đạo. Pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác pháp quyền tư sản, là công cụ thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích đại đa số. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh quyết định thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới. Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, sống còn. Đảng kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức. Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, chủ trương; bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và sự gương mẫu của đảng viên. Ý thức nguy cơ tham nhũng, quan liêu, thoái hoá, Đảng yêu cầu thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn.
Công cuộc đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Từ thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam thành nước độc lập, chủ quyền, thống nhất. Trước Đổi mới (1986), Việt Nam là nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vây cấm vận. Đời sống nhân dân khó khăn, 3/4 dân số nghèo khổ.
Nhờ đổi mới, kinh tế tăng trưởng liên tục gần 40 năm (trung bình gần 7%/năm). GDP năm 2023 đạt 430 tỷ USD (thứ 5 ASEAN, thứ 35 thế giới). GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, đạt 4.300 USD (năm 2023). Việt Nam ra khỏi nhóm thu nhập thấp (2008), hướng tới thu nhập trung bình cao (2030). Từ thiếu lương thực, trở thành nước xuất khẩu nông sản hàng đầu. Công nghiệp, dịch vụ chiếm 88% GDP. Xuất nhập khẩu năm 2023 gần 700 tỷ USD, xuất siêu kỷ lục 28 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối 100 tỷ USD (2023). Thu hút FDI hàng đầu ASEAN (vốn thực hiện 2023 đạt 23 tỷ USD). Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2023 xếp thứ 46/132.
Dân số hơn 100 triệu người (thứ 16 thế giới), thời kỳ dân số vàng. Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố. Chất lượng dân số cải thiện. Y tế, giáo dục, khoa học công nghệ được đầu tư. Đã có 12,5 bác sĩ, 32 giường bệnh/1 vạn dân. WB đánh giá Việt Nam là nước tiên phong đổi mới giáo dục.
Kinh tế phát triển giúp thoát khủng hoảng, cải thiện đời sống. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (1993) xuống 2,93% (2023, theo chuẩn đa chiều mới). 78% xã đạt chuẩn nông thôn mới. Hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển mạnh. Nhiều sân bay, bến cảng, hơn 1.900 km cao tốc, mạng 4G, 5G phủ rộng.
Hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập tiểu học (2000), THCS (2014). Số sinh viên tăng 20 lần. Gần 99% người lớn biết chữ. Bảo hiểm y tế đạt 93,35% dân số (từ 5,4% năm 1993). Chú trọng y tế dự phòng, hỗ trợ người khó khăn. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người cao tuổi được cấp BHYT miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong trẻ sơ sinh giảm 3 lần. Tuổi thọ trung bình tăng từ 62 (1990) lên 73,7 (2023). Chăm sóc người có công, Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng tốt hơn. Đời sống văn hoá cải thiện, phong phú. Gần 80% dân số dùng Internet. LHQ công nhận Việt Nam đi đầu thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Chỉ số HDI 2022 thuộc nhóm cao (0,737). Chỉ số hạnh phúc 2023 xếp 65/137.
Đảng lãnh đạo sát sao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ban hành nhiều Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, gần nhất là Nghị quyết TW 8 khóa XIII. Khẳng định giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; dựa vào dân, lấy “dân là gốc”, xây dựng “thế trận lòng dân”, “yên dân” là quyết định. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế. Ưu tiên phát triển kinh tế – xã hội (trung tâm), xây dựng Đảng (then chốt), phát triển văn hoá (nền tảng), quốc phòng, an ninh (trọng yếu, thường xuyên). Kiên định độc lập dân tộc và CNXH; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ môi trường hoà bình, ổn định. Kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh, từng bước hiện đại. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động. Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; chủ động hội nhập quốc tế.
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố. Chủ quyền quốc gia, môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Quân đội, công an được xây dựng ngày càng mạnh. Xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống phức tạp trên biển, biên giới. Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; trấn áp tội phạm. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái. Chỉ số hoà bình toàn cầu 2023 xếp thứ 41/163. Việt Nam là điểm đến an toàn, hấp dẫn.
Đối ngoại gần 40 năm đổi mới đã hình thành trường phái đặc sắc, độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”: kiên định nguyên tắc, uyển chuyển sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng bản lĩnh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Từ bị bao vây, cấm vận, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 nước (3 quan hệ đặc biệt, 6 đối tác chiến lược toàn diện, 12 đối tác chiến lược, 12 đối tác toàn diện). Thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện/chiến lược với cả 5 nước Thường trực HĐBA LHQ. Quan hệ kinh tế – thương mại với 230 quốc gia/vùng lãnh thổ. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, có nhiều sáng kiến, tham gia hiệu quả vào ASEAN, LHQ và các tổ chức khác. Hoạt động đối ngoại năm 2023 là điểm sáng với nhiều thành tựu lịch sử. Đón thành công Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và nhiều nguyên thủ quốc gia khẳng định vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Những thành tựu đổi mới là kết tinh sức sáng tạo, nỗ lực bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; khẳng định con đường đi lên CNXH là đúng đắn, phù hợp; đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi. Cương lĩnh chính trị tiếp tục là ngọn cờ dẫn dắt dân tộc.
Thực tiễn chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi, lập nên nhiều kỳ tích. Qua lãnh đạo cách mạng, Đảng được tôi luyện, trưởng thành, xứng đáng với sứ mệnh và sự tin cậy của Nhân dân. Chân lý được khẳng định: Ở Việt Nam, không lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi thử thách. Đảng đã đúc kết nhiều bài học quý, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang: trung thành vô hạn với lợi ích dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ đường lối, vận dụng sáng tạo lý luận, kinh nghiệm quốc tế; gắn bó máu thịt với Nhân dân, phục vụ Nhân dân; đoàn kết thống nhất, tổ chức kỷ luật chặt chẽ; đoàn kết quốc tế thuỷ chung. Với tất cả sự khiêm tốn, có thể nói: “Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Giá trị của việc tìm hiểu qua tài liệu Anh hùng Việt Nam PDF
Trong bối cảnh đất nước đạt được những thành tựu to lớn, việc tìm hiểu về lịch sử, đặc biệt là về những tấm gương anh hùng qua các thời kỳ, càng trở nên ý nghĩa. Các tài liệu dạng anh hùng việt nam pdf hay các ấn phẩm lịch sử khác giúp thế hệ hôm nay và mai sau hiểu rõ hơn về cội nguồn sức mạnh dân tộc, về sự hy sinh vô bờ bến của cha ông để có được non sông gấm vóc này. Nó không chỉ là kiến thức lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng, bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường và khát vọng cống hiến, góp phần xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời Bác Hồ căn dặn. Việc tìm kiếm và nghiên cứu những tài liệu này thể hiện sự trân trọng quá khứ và trách nhiệm với tương lai.
Phần Thứ Ba: Phát Huy Truyền Thống Yêu Nước, Quyết Tâm Thực Hiện Mục Tiêu Phát Triển Đất Nước
Chúng ta tự hào tiến lên dưới lá cờ của Đảng trong bối cảnh thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức. Thế giới đối mặt cạnh tranh chiến lược, tranh chấp chủ quyền, xung đột quân sự, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, cách mạng công nghiệp 4.0… tác động đa chiều. Trong nước, để đạt mục tiêu Đại hội XIII, tăng trưởng kinh tế 6 năm 2024-2030 cần đạt khoảng 8%/năm, là thách thức lớn. Thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán tiềm ẩn rủi ro. Thanh khoản của một số ngân hàng, doanh nghiệp còn khó khăn. Lãi suất, lạm phát còn áp lực. Sản xuất kinh doanh một số ngành suy giảm, doanh nghiệp rút lui, lao động mất việc. Giải ngân đầu tư công chưa đạt yêu cầu. Thu ngân sách, nợ xấu có xu hướng tăng. An ninh kinh tế, an ninh mạng, trật tự xã hội còn nhiều thách thức. Thực thi pháp luật, công vụ còn yếu, có nơi né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá.
Tình hình đòi hỏi không chủ quan, tự mãn, cũng không bi quan, dao động. Cần bình tĩnh, sáng suốt, phát huy kết quả, kinh nghiệm, khắc phục hạn chế, yếu kém để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội XIII và đến năm 2030. Đặc biệt, cần quán triệt, vận dụng sáng tạo 5 bài học kinh nghiệm Đại hội XIII đã đúc kết:
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị phải quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả. Kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tham nhũng, tiêu cực. Công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, xây dựng đội ngũ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Phát huy trách nhiệm nêu gương.
- Quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”. Tin tưởng, tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, chủ thể. Mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của Nhân dân. Thắt chặt quan hệ Đảng – Dân. Củng cố niềm tin của Nhân dân.
- Lãnh đạo, chỉ đạo phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, sáng tạo. Có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực. Kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn. Đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Phát huy dân chủ đi đôi với kỷ cương. Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
- Tập trung xây dựng đồng bộ thể chế phát triển. Hài hoà giữa kiên định và đổi mới; kế thừa và phát triển; đổi mới kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội; tuân thủ quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, con người, xã hội, môi trường; phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh; độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với Nhân dân làm chủ. Phát huy vai trò động lực của con người, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ.
- Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đi đôi với giữ vững môi trường hoà bình, ổn định. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ. Xử lý đúng đắn quan hệ với các nước. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước và thời đại.
Đồng thời, cần tiếp tục quán triệt, vận dụng tốt các bài học kinh nghiệm về đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách làm việc từ Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khoá XIII:
- Một là, Nắm vững, chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Quy chế làm việc, chủ trương, luật pháp. Thực hiện tốt nguyên tắc tổ chức Đảng, nhất là tập trung dân chủ. Đoàn kết, kiên định nguyên tắc. Với vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm, cần thảo luận dân chủ, cân nhắc kỹ lưỡng, quyết định kịp thời, đúng đắn.
- Hai là, Bám sát Chương trình làm việc toàn khoá để xây dựng, thực hiện chương trình công tác hằng năm, quý, tháng, tuần. Nhạy bén, linh hoạt bổ sung công việc hệ trọng, mới phát sinh. Phát huy việc tổ chức hội nghị cán bộ toàn quốc để triển khai nhanh, đồng bộ nghị quyết. Duy trì họp định kỳ hoặc khi cần của lãnh đạo chủ chốt để thống nhất chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn.
- Ba là, Ưu tiên ban hành đồng bộ, chất lượng hệ thống pháp luật, quy định, quy chế. Đổi mới, nâng cao chất lượng triển khai Nghị quyết Đại hội XIII. Cần sự phối hợp chặt chẽ, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân theo tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.
- Bốn là, Tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng Ủy viên phải chấp hành nghiêm quy chế, chế độ công tác. Chuẩn bị kỹ nội dung họp, sắp xếp khoa học, phát huy trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân. Phân công, phân cấp rõ ràng. Giải quyết công việc đúng thẩm quyền, báo cáo kịp thời Trung ương.
- Năm là, Từng Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải nêu gương, tu dưỡng đạo đức cách mạng; tự soi, tự sửa; giữ kỷ luật, kỷ cương; nhận trách nhiệm chính trị; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực; giữ đoàn kết nội bộ; vững vàng chính trị, tư tưởng; gương mẫu đạo đức, lối sống. Tránh “Chân mình còn lấm bê bê; Lại cầm bó đuốc đi rê chân người!”.
Trên cơ sở đó, tập trung ưu tiên thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm:
- Thứ nhất, về kinh tế: Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương, đường lối về phát triển nhanh, bền vững. Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ. Giữ ổn định hệ thống tín dụng, thị trường tiền tệ, bất động sản, chứng khoán, trái phiếu. Cải thiện môi trường đầu tư. Giải quyết khó khăn, hạn chế để giữ đà phục hồi, tăng trưởng. Tạo chuyển biến mạnh trong thực hiện đột phá chiến lược, cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đẩy mạnh chuyển đổi số, kinh tế số, kinh tế xanh, tuần hoàn gắn với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.
- Thứ hai, về văn hoá, xã hội: Quan tâm hơn nữa nhiệm vụ phát triển văn hoá, xã hội hài hoà, ngang tầm kinh tế. Bảo đảm an sinh, phúc lợi. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân. Hỗ trợ người dân, lao động, doanh nghiệp khó khăn. Chăm lo người có công, người khó khăn. Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh gắn với bảo tồn văn hoá. Giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững. Ưu tiên nguồn lực cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi, khó khăn. Làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng y tế. Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Nâng cao hiệu quả thiết chế văn hoá. Bảo tồn, phát huy di sản. Xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh; ngăn chặn suy thoái đạo đức, lối sống; phòng chống bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em, tệ nạn xã hội.
- Thứ ba, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Tiếp tục củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá. Không để bị động, bất ngờ. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phòng chống tội phạm, tệ nạn. Bảo đảm an ninh mạng, an toàn giao thông, phòng cháy chữa cháy. Tổ chức tốt hoạt động đối ngoại, nhất là cấp cao. Làm sâu sắc quan hệ với các đối tác. Đẩy mạnh đối ngoại đa phương. Giữ vững đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác, phát triển. Hội nhập quốc tế sâu rộng vì lợi ích quốc gia. Thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại.
- Thứ tư, về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Tiếp tục đẩy mạnh, làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nhất là cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng Chính phủ, chính quyền địa phương liêm chính, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện nghiêm Nghị quyết TW 4 khóa XII, Kết luận Hội nghị TW 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, xử lý cán bộ, đảng viên suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Làm tốt công tác cán bộ, lựa chọn người có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết. Loại bỏ người tham nhũng, hư hỏng. Chống chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái người nhà không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, trách nhiệm, nêu gương, tinh thần phục vụ nhân dân. Bảo vệ người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Nâng cao đạo đức, văn hoá, tính chuyên nghiệp công vụ. Kiên trì đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực gắn với hoàn thiện luật pháp, cơ chế để “không thể, không dám, không muốn tham nhũng”.
- Thứ năm, về chuẩn bị Đại hội XIV: Các Tiểu ban cần khẩn trương, nghiêm túc tổng kết lý luận, thực tiễn 40 năm đổi mới; xây dựng dự thảo văn kiện trình đại hội các cấp và Đại hội XIV. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIV. Chuẩn bị, tiến hành tốt đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng.
Nguồn cảm hứng lịch sử và định hướng tương lai được trình bày trong bài viết này phần lớn dựa trên những phân tích, đánh giá sâu sắc về chặng đường cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là những tổng kết và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Điều này phản ánh một tầm nhìn chiến lược, sự thấu hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc và niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một Việt Nam văn hiến và anh hùng.
Tổng kết và Niềm Tin Tương Lai
Nhà thơ Tố Hữu từng viết trong bài “30 năm đời ta có Đảng”: “Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt / Đảng ta đây, xương sắt da đồng / Đảng ta, muôn vạn công nông / Đảng ta, chung một tấm lòng niềm tin”. Niềm tự hào, tin tưởng ấy của nhân dân với Đảng ngày càng được củng cố qua những thành tựu vĩ đại trong đấu tranh giành độc lập, kháng chiến kiến quốc, thống nhất đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc và đặc biệt là trong gần 40 năm đổi mới, hội nhập, đưa đất nước đạt được “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tìm hiểu về những chặng đường này, về những tấm gương anh hùng đã làm nên lịch sử, qua các nguồn tài liệu đáng tin cậy, kể cả các tài liệu dạng anh hùng việt nam pdf, là cách thiết thực để nuôi dưỡng lòng tự hào và niềm tin đó.
Trên chặng đường vinh quang phía trước, dưới lá cờ của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục hướng tới mục tiêu năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng): Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước): trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng đất nước Việt Nam “cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Dân tộc Việt Nam anh hùng; tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tải Tài liệu Anh hùng Việt Nam PDF
Việc tìm kiếm các tài liệu dạng anh hùng việt nam pdf thể hiện mong muốn tìm hiểu sâu sắc về lịch sử hào hùng và những tấm gương tiêu biểu của dân tộc. Để có được thông tin chính xác, đầy đủ và giá trị, bạn đọc nên tìm đến các nguồn tài liệu chính thống được xuất bản bởi các nhà xuất bản uy tín, các công trình nghiên cứu lịch sử đã được thẩm định, hoặc truy cập vào các thư viện quốc gia, thư viện tỉnh, thành phố, các bảo tàng lịch sử và các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu lịch sử. Hãy chủ động tìm đọc và lan tỏa những câu chuyện về lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.