Contents
- Những Tư Tưởng Tiến Bộ Vượt Thời Đại Của Bộ Luật Hồng Đức
- Tính Nhân Đạo Sâu Sắc Trong Bộ Luật Hồng Đức
- Một là, tính nhân đạo đối với người phạm tội
- Hai là, tính nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt
- Ba là, quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em
- Bốn là, tính nhân đạo đối với một số đối tượng khác
- Giá Trị Tham Khảo Của Bộ Luật Hồng Đức Đối Với Việc Hoàn Thiện Bộ Luật Hình Sự Nước Ta Hiện Nay
- Thông Tin Tác Giả Bài Viết Gốc
- Đánh Giá Về Bộ Luật Hồng Đức
- Tài liệu tham khảo
- Tải Bộ Luật Hồng Đức PDF
Bộ Luật Hồng Đức (còn được biết đến với tên gọi Quốc triều hình luật hay Lê Triều hình luật) được xem là một đỉnh cao trong lịch sử lập pháp phong kiến Việt Nam. Với nội dung phong phú, nhiều quy định tiến bộ, thấm đượm tinh thần nhân văn và kỹ thuật pháp lý vượt trội so với các bộ luật cùng thời, thậm chí có những điểm tương đồng với tư duy pháp lý hiện đại, Bộ Luật Hồng Đức đã khẳng định vị thế đặc biệt của mình. Quá trình hình thành bộ luật này kéo dài từ thời Lê Thái Tổ và chỉ được hoàn thiện dưới triều Lê Thánh Tông. Thực chất, đây không phải là sản phẩm sáng tạo của riêng vua Lê Thánh Tông hay chỉ được xây dựng trong niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), mà là kết tinh của cả một giai đoạn thịnh trị của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam thời Lê sơ. Công lao của vua Lê Thánh Tông và triều đình của ông là đã hệ thống hóa, san định các luật lệ từ các triều trước để hoàn chỉnh bộ pháp điển này. Các triều đại phong kiến thời Lê Trung Hưng (1533-1789) sau này vẫn coi Bộ Luật Hồng Đức là khuôn mẫu, chỉ điều chỉnh, bổ sung một số điều khoản nhỏ cho phù hợp với bối cảnh xã hội.
Bộ Luật Hồng Đức còn lưu truyền đến ngày nay (đã được bổ sung bởi các vua thời Lê Trung Hưng) bao gồm 13 chương và 722 điều, được chia thành 6 quyển[1]:
- Quyển 1 gồm 2 chương: Danh lệ (49 điều) và Cấm vệ (47 điều).
- Quyển 2 gồm 2 chương: Vi chế (144 điều) và Quân lính (23 điều).
- Quyển 3 gồm 6 chương: Hộ hôn (60 điều); Điền sản (32 điều); Thủy tăng điền sản (14 điều); Tăng bổ hương hỏa (4 điều); Hựu tăng bổ hương hỏa (9 điều) và Gian thông (10 điều).
- Quyển 4 gồm 2 chương: Đạo tặc (54 điều) và Đấu tụng (50 điều).
- Quyển 5 gồm 2 chương: Trá ngụy (38 điều) và Tạp luật (92 điều).
- Quyển 6 gồm 2 chương: Bổ vong (12 điều) và Đoán ngục (65 điều).
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là tính nhân văn sâu sắc, tinh thần nhân đạo bao trùm lên các đối tượng “dễ bị tổn thương” trong xã hội như người già, người khuyết tật, trẻ em, và phụ nữ mang thai. Từ đó, liên hệ đến chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, hướng tới hoàn thiện Bộ luật Hình sự năm 2015, như một công cụ pháp lý sắc bén bảo vệ quyền con người và quyền công dân.
Những Tư Tưởng Tiến Bộ Vượt Thời Đại Của Bộ Luật Hồng Đức
Ra đời vào thế kỷ XV, Bộ Luật Hồng Đức đã đạt được những giá trị và thành tựu đáng kể, mang nhiều đặc điểm tiến bộ, ưu việt hơn hẳn các bộ luật trước đó và cả những bộ luật sau này. Nhiều yếu tố trong bộ luật này vẫn còn ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
Một trong những điểm tiến bộ nổi bật nhất, được giới nghiên cứu thường xuyên đề cập, chính là sự quan tâm đặc biệt đến địa vị của người phụ nữ. Bộ luật dành nhiều điều khoản quy định quyền lợi của phụ nữ, tạo cho họ sự bình đẳng tương đối với nam giới trong xã hội và với người chồng trong gia đình. Đây chính là yếu tố làm nên sự đặc biệt và tầm nhìn đi trước thời đại của Bộ Luật Hồng Đức.
Trong bộ luật, nhiều điều khoản liên quan đến địa vị pháp lý của người phụ nữ đã được quy định – một điều hiếm thấy trong các bộ luật phong kiến khác. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sự coi trọng này phần lớn xuất phát từ tư tưởng của vua Lê Thánh Tông. Ông đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn hệ tư tưởng Nho giáo với phong tục tập quán và truyền thống dân tộc. Cuộc đời của vị vua này cũng gắn liền với sự giúp đỡ của nhiều người phụ nữ quan trọng như bà thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao[2] và bà Nguyễn Thị Lộ[3], do đó, ông mong muốn bảo vệ phụ nữ khỏi sự khinh miệt và chà đạp trong xã hội phong kiến.
Bộ Luật Hồng Đức cũng thể hiện sự quan tâm đến việc bảo vệ những quyền cơ bản của con người. Dù bị giới hạn bởi quan niệm giai cấp, bộ luật này vẫn đưa ra nhiều quy định bảo vệ con người, bao gồm cả những người thuộc tầng lớp dưới trong xã hội. Chẳng hạn, bộ luật bảo vệ quyền tự do của dân đinh, quy định hình phạt cụ thể chống lại việc nô tỳ hóa dân đinh, đặc biệt là không có sự phân biệt về địa vị xã hội và bảo vệ danh dự, nhân phẩm con người.
Trong lĩnh vực pháp luật, Bộ Luật Hồng Đức cho thấy những tiến bộ vượt trội. Đặc biệt, bộ luật rất chú trọng đến việc đào tạo và sử dụng quan lại. Các điều luật liên quan đến quan tướng các cấp chiếm hơn 50% tổng số điều luật về tội phạm. Quy định về tội phạm rất tỉ mỉ, chi tiết, làm tăng tính hiệu lực của bộ luật. Các loại tội phạm được phân định rõ ràng, được nhóm lại với nhau dù không cùng xâm hại một khách thể nhưng có liên hệ, tạo thuận lợi cho việc xét xử. Mặc dù ra đời cách đây hơn 500 năm, Bộ Luật Hồng Đức đã quy định được gần như tất cả các tội danh cơ bản theo quan điểm của luật hình sự hiện đại.
“Lê triều hình luật” cũng đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ các mối quan hệ gia đình. Có thể thấy, các nhà lập pháp thời bấy giờ đã nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của gia đình – hạt nhân của xã hội. Đồng thời, điều này cũng cho thấy sự chi phối mạnh mẽ của hệ tư tưởng Nho giáo đối với chính trị và xã hội Đại Việt thời kỳ đó. Có thể khẳng định, Bộ Luật Hồng Đức đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, mang tính chất tiến bộ vượt thời đại. Sự phát triển vững mạnh của chế độ phong kiến trung ương tập quyền thời Lê Sơ càng được củng cố với sự ra đời của “Lê triều hình luật” vào năm 1483, trong giai đoạn thịnh trị của nhà Hậu Lê[4].
Tính Nhân Đạo Sâu Sắc Trong Bộ Luật Hồng Đức
Dù mang bản chất giai cấp phong kiến, Bộ Luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với các quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, nô tỳ, người cô quả, tàn tật… Nhiều quy định của bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt, bộ luật này còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, phản ánh truyền thống nhân đạo, tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng quốc gia.
Tính dân tộc được thể hiện rõ nét qua việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già yếu… được xếp vào nhóm “đối tượng dễ bị tổn thương” cần sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng. Hơn 500 năm trước, Bộ Luật Hồng Đức đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội, nhất là của quan chức đối với nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê[5].
Một là, tính nhân đạo đối với người phạm tội
Điều 16 của Bộ luật quy định, những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và người phế tật (si, câm, què quặt, gãy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền. Người từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng (điên cuồng, bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ xử tử thì phải tâu lên vua quyết định. Những người này nếu phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng được chuộc tội. Người từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tử tội cũng không bị áp dụng hình phạt.
Điều 17 còn quy định việc xem xét thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật: “khi phạm tội chưa già, tàn tật. Khi già, tàn tật mới phát giác tội thì xử tội theo luật già, tàn tật…Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ”. Nghiêm cấm tra khảo đối với một số đối tượng và liên quan đến người làm chứng, Điều 665 quy định: “Những người đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội. Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”.
Pháp luật nghiêm cấm đối xử bạo ngược với tù nhân trong một số trường hợp. Nếu tù nhân bị bệnh thì không được tra khảo, theo Điều 669: “…Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…”. Điều 697 quy định, trường hợp phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng tội nhân nghèo khổ không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua định đoạt.
Để tránh lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền lợi của họ, Điều 707 quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bị tội trên, nhưng được giảm một bậc”.
Hai là, tính nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt
Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, quan chức địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều 294 quy định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa, quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, không được để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm hay bị bãi chức…”.
Những đối tượng cần giúp đỡ khác là “những người góa vợ, góa chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ không người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công”.
Ba là, quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em
Quyền lợi của phụ nữ được đề cập chủ yếu trong hai chương “Hộ hôn” và “Điền sản”, với những quy định thể hiện sự coi trọng vai trò cá nhân của người phụ nữ và bảo vệ quyền lợi của họ trong hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.
Người vợ, theo phong tục phải lệ thuộc chồng, nhưng trong Bộ Luật Hồng Đức, địa vị của người vợ có sự độc lập nhất định. Họ có quyền sở hữu tài sản riêng, có quyền xin ly hôn trong một số trường hợp. Ví dụ, Điều 308 quy định: “Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 5 tháng thì vợ được phép trình quan sở tại, quan xã làm chứng thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia hạn 1 năm. Những người công sai đi xa không áp dụng luật này. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm”.
Cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị xử tội, theo Điều 320: “Mãn tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngoài ông bà, cha mẹ, kẻ nào khác gả ép người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly dị. Trả người đàn bà về chồng cũ…” hoặc Điều 338: “những nhà quyền thế mà ức hiếp để cưới con gái lương dân thì xử phạt, biếm hay đồ”. Khi ly hôn, tài sản vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: tài sản thừa kế của chồng, tài sản thừa kế của vợ, và tài sản chung do hai vợ chồng tạo dựng. Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản là của chung; khi ly hôn, tài sản riêng của ai người đó nhận, tài sản chung chia đôi.
Điều 403 và 404 xử rất nặng các trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh phụ nữ: “hiếp dâm thì xử lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường. Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người bị thương. Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà người bị chết”; “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm”.
Theo Điều 482, nếu “chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết người nhưng nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền mạng bớt 3 phần. Cố ý giết vợ thì giảm một bậc tội; nếu có tội bị chồng đánh, không may chết thì xử riêng. Đánh vợ bé bị thương, sứt gãy trở lên thì nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…”. Trường hợp phụ nữ liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội, họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định. Điều 409: “Quan coi ngục, lại ngục, ngục tốt gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với tội gian dâm thông thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3 bậc tội cho các gian phụ ấy. Nếu họ bị hiếp thì không xử tội họ”. Đặc biệt, Điều 680 quy định: “Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi sau khi sinh đẻ 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh roi đưa đến trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay giết người, làm bị thương người)…”.
Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ. Ví dụ, Điều 429, 441 quy định: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có giết người thì xử tội giết người. Đàn bà được giảm tội”, hoặc trường hợp đầy tớ ăn trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì được giảm tội”. Luật cũng cấm “lấy thuốc sảy thai làm người sảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng đều xử đồ. Vì sảy thai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tội giết người” (Điều 424). Với một số tội, mức phạt đối với phụ nữ nhẹ hơn đàn ông, ví dụ Điều 450: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn bà được giảm một bậc”.
Bên cạnh bảo vệ quyền lợi phụ nữ, Bộ Luật Hồng Đức còn chú ý đến trẻ em. Điều 313 quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình không người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm chứng đều bị xử roi, trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho kẻ mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì cho phép”. Theo Điều 605: “Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền), trái luật không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc” (điều 604). Trường hợp kẻ nào “lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành hạ để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho cha mẹ đứa trẻ chết”.
Bốn là, tính nhân đạo đối với một số đối tượng khác
Các đối tượng này bao gồm người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở đợ, người mất khả năng nhận thức. Điều 435 quy định hình phạt đối với hành vi “trấn lột quần áo, đồ đạc của trẻ em, của kẻ khùng điên, của người say rượu thì bị xử tội đồ và phải đền gấp đôi”.
Điều 363 quy định: “Mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi mà lại tự ý xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”. Trường hợp xâm chữ vào kẻ ở đợ bắt làm nô tỳ thì bị xử lưu, phạt 50 quan tiền, và phải trả tiền xóa chữ (Điều 365). Nếu “Những nô tỳ được cho về làm lương dân, cấp giấy rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một tư. Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (Điều 291).
Điều 490 quy định, nếu nô tỳ có tội, chủ không thưa quan mà đánh chết thì xử biếm 3 tư. Nô tỳ không có tội mà đánh chết thì xử đồ. Giết nô tỳ coi từ đường, mồ mả thì xử nặng hơn một bậc. Nô tỳ sai phạm, dạy bảo đánh bằng roi vô tình làm chết, hay ngộ sát thì xử tùy nặng nhẹ.
Đối với người dân tộc thiểu số, Bộ Luật Hồng Đức có một số điều nhằm bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại. Điều 71 cấm quan quân giữ cửa ải “thấy khách buôn bán và dân Man Liêu qua cửa ải mà đòi tiền của họ thì bị biếm hai tư. Đền trả lại cho gấp hai số tiền”. Điều 163 quy định, khi chiêu dụ dân Man Liêu mà tự tiện phá nhà cửa, lấy súc vật, tài sản của dân thì bị tội biếm hay đồ, và phải bồi thường gấp đôi. Nếu giả mạo chỉ lệnh của quan trên để “đòi trưng thu sản vật của dân Man Liêu thì xử lưu châu ngoài và đền gấp hai tang vật” (Điều 531). “Thu thuế của dân Man Liêu mà không đến trình người cai quản thì xử biếm một tư” (Điều 595).
Việc xử lý người dân tộc phạm tội cũng có sự cân nhắc nhẹ nhàng hơn, áp dụng cả tục lệ của họ. Điều 40 quy định: “Những người miền thượng du (miền núi) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (vùng đồng bằng) thì theo luật mà định tội”. Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn nhau thì xử nhẹ hơn tội cướp, giết người thường một bậc. Nếu hoà giải được với nhau thì cũng cho” (Điều 451). Nếu “quan quản giám các dân Man Liêu tự ý trông coi các vụ kiện trong hạt riêng, sai người đem tráp đi bắt người hoặc ức hiếp dân thì xử phạt 40 trượng biếm 2 tư” (Điều 164). Khi bắt tội phạm là người thiểu số mà không trình quan quản giám người Man Liêu thì bị xử biếm một tư (Điều 703).
Giá Trị Tham Khảo Của Bộ Luật Hồng Đức Đối Với Việc Hoàn Thiện Bộ Luật Hình Sự Nước Ta Hiện Nay
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội. Bất kỳ quốc gia nào cũng xem ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Để đạt được điều này, cần có một hệ thống pháp luật nghiêm minh, là công cụ bảo vệ nhà nước. Hiệu quả của hệ thống pháp luật trở thành thước đo sự ổn định quốc gia. Nếu pháp luật nghiêm minh, thưởng phạt công bằng, xuất phát từ lợi ích chung, sẽ góp phần làm cho bộ máy nhà nước vận hành tốt, tạo sự đồng thuận xã hội.
Các bộ luật phong kiến ra đời trên cơ sở kinh tế và cấu trúc giai tầng của xã hội đó, chủ yếu bảo vệ chế độ phong kiến. Các điều luật trong Lê triều hình luật, dù gắn bó với thực tiễn, về cơ bản mang tư tưởng, tình cảm và quan niệm của vua Lê Thánh Tông, bao gồm cả lòng nhân ái của vị vua này. Nguyên tắc cơ bản và mục tiêu quan trọng nhất của Bộ Luật Hồng Đức là bảo vệ, củng cố chế độ quân chủ phong kiến, lợi ích của nhà nước, nhà vua và hoàng tộc. Những hành vi xâm phạm đến lợi ích này bị liệt vào tội “thập ác”[6] với hình phạt nghiêm khắc nhất. Các quy định về tội phạm và hình phạt trong lĩnh vực này rất kỹ lưỡng, tập trung ở các chương: Danh lệ, Vệ cấm, Vi chế, Đạo tặc, Trá nguỵ và Tạp luật. Bộ luật quy định 8 “hạng người” có đặc quyền, đặc lợi, đứng đầu là hoàng tộc và quan chức trong triều (Điều 3). Những người này nếu phạm tội tử hình thì phải đệ trình Vua xem xét; nếu phạm tội nhẹ hơn thì được giảm tội.
Bộ Luật Hồng Đức bảo vệ cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến: chế độ tư hữu ruộng đất (quyền lợi của quan lại, quý tộc, địa chủ) và chế độ sở hữu tối cao của Nhà nước (quản lý ruộng đất, thu tô thuế). Quy định về ruộng đất nằm trong Quyển 3, chương Điền sản. Pháp luật bảo vệ nghiêm ngặt ruộng đất công, xử phạt nặng hành vi chiếm dụng, ẩn lậu đất công (các điều 342, 343, 345, 346…). Đồng thời, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất (các điều 356, 357, 358, 360, 378). Ngăn cấm quan lại dựa quyền thế chiếm đoạt ruộng đất tư (Điều 370).
Bộ luật này cũng có nhiều điều khoản hạn chế các thế lực ảnh hưởng đến triều đình, hạn chế lạm quyền, buộc quan đại thần trung thành với vua. Để phòng nguy cơ tái xâm lược từ nhà Minh, Bộ Luật Hồng Đức trừng trị nghiêm khắc kẻ thông đồng hoặc tiết lộ việc triều đình cho người nước ngoài (các điều 71, 612, 613), cấm tự tiện qua biên giới, kiểm soát chặt chẽ việc thông thương. Điều 71 quy định: “Người trốn qua cửa quan ra khỏi bên giới đi sang nước khác thì bị chém”. Điều 74: “Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài thì bị chém”.
Vua Lê Thánh Tông đặc biệt coi trọng việc đắp đê, phòng lũ lụt. Bộ Luật Hồng Đức quy định tỉ mỉ về việc này. Quan điểm “dân là gốc nước” được thể chế hóa, bảo vệ quyền lợi người dân. Điều 370 và 371 phạt nặng những nhà quyền thế chiếm đoạt nhà cửa, ruộng đất của dân, hoặc quan lại không trừ diệt thú dữ hại dân. Luật pháp yêu cầu quan xử án phải công tâm, không ép cung. Điều 683 quy định: “Quan xử án, trong bản án, chỗ luận tội phải dẫn đủ chánh văn và cách thức của luật định. Làm trái thì xử phạt.”
Trong tiến trình hoàn thiện pháp luật hình sự, việc tiếp thu, vận dụng những tư tưởng tiến bộ của Bộ Luật Hồng Đức là cần thiết. Bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, trong đó có thượng tôn pháp luật, lấy dân làm gốc, là bài học quý báu. Nhà nước pháp quyền của chúng ta có mối liên hệ lịch sử với các yếu tố pháp trị phương Đông, tư tưởng Khai sáng Pháp, và chủ nghĩa Mác – Lênin.
Để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta chủ trương “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “phòng chống tham nhũng, lãng phí”, “phát huy dân chủ” và “giữ vững kỷ cương”. Điểm chung của truyền thống yêu nước Việt Nam là đảm bảo ổn định xã hội vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thông Tin Tác Giả Bài Viết Gốc
Bài viết gốc được biên soạn bởi Phạm Thị Hồng Đào, công tác tại Bộ Tư pháp. Những phân tích và nhận định trong bài viết thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc về các khía cạnh lịch sử và pháp lý của Bộ Luật Hồng Đức.
Đánh Giá Về Bộ Luật Hồng Đức
Bộ Luật Hồng Đức không chỉ là một thành tựu lập pháp to lớn của triều đại Hậu Lê mà còn là một di sản quý báu của dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng tiến bộ về quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em, cùng với tính nhân đạo sâu sắc trong việc xử lý tội phạm và bảo vệ các nhóm người yếu thế, đã vượt xa khuôn khổ của một xã hội phong kiến. Các quy định về tố tụng, về trách nhiệm của quan lại, và việc nhấn mạnh sự công bằng, khách quan trong xét xử là những bài học giá trị cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện đại. Giá trị tham khảo của Bộ Luật Hồng Đức đối với việc xây dựng Bộ luật Hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam ngày nay là không thể phủ nhận, góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân.
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc triều hình luật – Viện Sử học, Nxb Pháp lý, Hà Nội, năm 1991[2] Ngô Thị Ngọc Dao (1421 – 1496), Quang Thục thái hậu, mẹ Lê Thánh Tông.
[3] Nguyễn Thị Lộ (1400 hoặc 1390 – 1442), vợ thứ Nguyễn Trãi, nữ quan nhà Hậu Lê.
[4] Nguyễn Quốc Hoàn, Quốc triều hình luật những giá trị về lập pháp, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 2004, trang 134.
[5] Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001, trang 240- 244
[6] Thập ác: 10 trọng tội nguy hiểm nhất như mưu phản, mưu đại nghịch, ác nghịch, bất hiếu, bất đạo…
Tải Bộ Luật Hồng Đức PDF
Để tìm hiểu sâu hơn về nội dung chi tiết của Bộ Luật Hồng Đức, độc giả có thể tìm kiếm các bản PDF được số hóa từ các ấn phẩm nghiên cứu, sách chuyên khảo về lịch sử pháp luật Việt Nam hoặc các tài liệu lưu trữ tại thư viện quốc gia, các viện nghiên cứu. Việc tiếp cận toàn văn Bộ Luật Hồng Đức PDF sẽ giúp bạn có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về một trong những bộ luật quan trọng nhất trong lịch sử nước nhà.