Phan Châu Trinh (1872-1926), một chí sĩ yêu nước vĩ đại, nhà tư tưởng cải cách tiên phong của Việt Nam đầu thế kỷ 20, đã để lại một di sản đồ sộ qua các tác phẩm chính luận sắc bén. Những tư tưởng của ông về dân chủ, dân quyền, tự lực khai hóa và canh tân đất nước đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều thế hệ. Việc tìm hiểu Phan Châu Trinh Và Các Tác Phẩm Chính Luận (PDF) của ông không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một giai đoạn lịch sử quan trọng mà còn khơi gợi những suy ngẫm sâu sắc về con đường phát triển của dân tộc. Bài viết này sẽ giới thiệu và phân tích sâu hơn về những đóng góp tư tưởng của Phan Châu Trinh, đặc biệt qua lăng kính của cuốn sách “Phan Châu Trinh and His Political Writings” do cố học giả Vĩnh Sính biên soạn, và bản dịch tiếng Việt cùng những phân tích sâu sắc của TS. Nguyễn Xuân Xanh.

Cuốn sách của Vĩnh Sính, xuất bản bởi Đại học Cornell năm 2009, và sau đó được Nhà xuất bản Trẻ phát hành bản dịch tiếng Việt vào cuối năm 2022 (dịch giả Nguyễn Nghị), là một công trình quý giá, giúp độc giả trong và ngoài nước tiếp cận một cách hệ thống những trước tác quan trọng của Phan Tây Hồ tiên sinh. Sự ra đời của bản dịch tiếng Việt càng có ý nghĩa khi năm 2022 đánh dấu 150 năm ngày sinh của ông, một dịp để nhìn lại và suy ngẫm về những thông điệp mà ông gửi gắm.

Giới thiệu công trình “Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận” của Vĩnh Sính

Cố học giả Vĩnh Sính, qua công trình nghiên cứu công phu “Phan Châu Trinh and His Political Writings”, đã giới thiệu Phan Châu Trinh ra thế giới như một nhân vật lịch sử nổi bật của Việt Nam thế kỷ 20. Mục tiêu của giáo sư Vĩnh Sính là làm nổi bật hình ảnh một nhà cải cách Việt Nam có tư tưởng gần gũi với các nhà cải cách Nhật Bản thời Minh Trị Duy Tân, nhưng đồng thời cũng rất khác biệt so với phần lớn sĩ phu cùng thời, điển hình là Phan Bội Châu. Dù con đường cải cách của Phan Châu Trinh gặp nhiều trắc trở và bản thân ông cũng tự đoán trước thất bại, những ý tưởng ông để lại vẫn mang giá trị thời sự sâu sắc.

Quyển sách được chia thành hai phần chính:

  1. Lời dẫn nhập: Do Vĩnh Sính viết, tóm lược cuộc đời và những tư tưởng chính của Phan Châu Trinh.
  2. Các bài viết chính luận quan trọng: Bao gồm bốn bài chính luận tiêu biểu của Phan Châu Trinh, là tinh hoa tư tưởng của ông.

TS. Nguyễn Xuân Xanh, trong bài dẫn nhập cho bản dịch tiếng Việt, đã bày tỏ sự cảm kích trước công trình của Vĩnh Sính và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa tư tưởng Phan Châu Trinh đến với độc giả Việt Nam. Ông viết: “Cảm kích trước cuộc đời tài hoa của người bạn Vĩnh Sính, và luôn luôn mang trong đầu câu hỏi: ‘Tại sao các quốc gia xung quanh thành công, còn chúng ta chưa thành công?’, tôi cảm thấy một món ‘nợ tinh thần’ cần phải đưa quyển sách chứa đựng sự trình bày và cái nhìn sáng sủa của một nhà nghiên cứu uyên thâm này về Phan Châu Trinh đến độc giả Việt Nam, để góp phần nhìn lại và hiểu biết thêm về Việt Nam. Ôn cố tri tân là điều cần làm ở mọi thời kỳ lịch sử.”

Cuộc đời và những tư tưởng cốt lõi của Phan Châu Trinh

Qua những trang viết đầy tâm huyết, Phan Châu Trinh hiện lên như một nhà đấu tranh không mệt mỏi, một nhà cải cách sâu sắc và một nhà giáo dục tận tâm của dân tộc.

Nhà đấu tranh cho dân chủ và dân quyền

Phan Châu Trinh được xem là người truyền bá dân quyền đầu tiên ở Việt Nam. Ông không ngừng đấu tranh cho dân chủ và dân quyền nhằm giành lại nhân phẩm cho người Việt, tạo tiền đề cho sự phát triển. Ông tin rằng, muốn thay đổi vận mệnh đất nước, trước hết phải thay đổi từ ý thức và năng lực của người dân. Ông chủ trương “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”, coi đây là nền tảng để xây dựng một xã hội tiến bộ.

Nhà cải cách với tầm nhìn hiện đại hóa đất nước

Phan Châu Trinh có cái nhìn sâu sắc về con đường hiện đại hóa đất nước. Ông nhận thấy rằng sức mạnh của các quốc gia phương Tây không chỉ nằm ở tàu chiến, súng đạn mà còn ở nền công nghiệp hiện đại và một thể chế phát triển. Do đó, ông chủ trương dựa vào Pháp để tự cải thiện, học hỏi văn minh phương Tây, từng bước trưởng thành và tiến lên giành tự chủ. Ông phê phán mạnh mẽ tư tưởng dựa vào ngoại lực nhất thời hay giải pháp quân sự đơn thuần khi nội lực dân tộc còn yếu kém. Ngay cả khi bị lưu đày ở Côn Đảo, ông đã khẳng định: “Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy ở nước ngoài chỉ diễn cái trò ‘đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai’, không ích gì…, mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu (thù) của mình, Triều Tiên, Đài Loan, cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp”.

Nhà giáo dục và khai sáng dân tộc

Phan Châu Trinh đóng vai trò như một “educator” – một người thầy của dân tộc. Ông muốn dân tộc tự ý thức những nhược điểm đã hằn sâu trong tâm lý, “tự lực khai hóa” từ bên trong. Ông sử dụng nghệ thuật diễn thuyết một cách tài tình để truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền, đạo đức và luân lý Đông Tây. Những bài diễn thuyết của ông hùng hồn, hiện đại và đầy sức thuyết phục, làm lay động lòng người. Về phương diện này, Nguyễn Xuân Xanh ví Phan Châu Trinh như Fukuzawa Yukichi của Việt Nam – một nhà khai sáng, một nhà cách mạng tư tưởng.

Ông còn hành động cụ thể mang tính biểu tượng như cắt tóc ngắn, mặc Âu phục may từ vải nội địa (“mốt Tây Hồ”) để đoạn tuyệt với tư duy cũ, khuyến khích đổi mới.

So sánh Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu: Hai con đường cứu nước

Một trong những điểm nổi bật trong tư tưởng của Phan Châu Trinh là sự khác biệt rõ rệt với Phan Bội Châu, một nhà yêu nước tiêu biểu khác cùng thời. Trong khi Phan Bội Châu chủ trương bạo động vũ trang và cầu viện Nhật Bản để đánh đuổi Pháp, Phan Châu Trinh lại cho rằng con đường đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Ông trách khéo Phan Bội Châu: “Ngày nay có danh sĩ tự phụ là yêu nước mà không biết tập trung hết sức vào trong nước mà đề xướng quốc dân, rồi như sư tử ngủ mê, ngợi khen cường quyền của Đảo quốc (Nhật Bản), nói năng ngông cuồng không nghĩ tới lợi hại, chỉ muốn mời một nước thứ ba ‘khẩu phật tâm xà’ không có lấy chút nhân đạo để đem giao phó tất cả vận mệnh đất nước cho được mới bằng thích.”

Phan Châu Trinh nhận định Phan Bội Châu là hình mẫu của “nhà yêu nước bị biến tướng bởi cái học văn chương tám vế”, mang nặng những tập tính của lối học khoa cử. Ông viết: “(Các trước tác của Phan Bội Châu) xem ra toàn là biến thể của văn chương bát cổ, không có mảy may một chút giá trị, nhưng vì trình độ và tính cách thích hợp với quốc dân, nên dân mới bị lừa theo”. Ông cũng cho rằng cá tính của Phan Bội Châu phản ánh “những quán tính lâu đời của người Việt Nam, gồm những mặt tốt đẹp nhất cho tới những mặt thiếu sót, kém cỏi nhất”.

Phan Châu Trinh tự nhận thấy chủ trương của mình khó được chấp nhận trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: “Tôi tự biết những lý do mà chủ nghĩa của ông ấy (Phan Bội Châu) đưa ra thì rất yếu, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của dân nước Nam thì rất mạnh. Chủ nghĩa của tôi, lý do đưa ra thì rất mạnh, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của người nước Nam trong tình thế hiện tại thì rất yếu.” Dù vậy, ông vẫn kiên định với con đường cải cách từ bên trong, tin rằng đó mới là giải pháp căn cơ cho vận mệnh dân tộc.

Phan Châu Trinh và tấm gương canh tân Nhật Bản

Cuộc canh tân vĩ đại của Nhật Bản thời Minh Trị là một nguồn cảm hứng mạnh mẽ đối với Phan Châu Trinh. Những tân thư từ Trung Hoa, vốn chịu ảnh hưởng từ cải cách Nhật Bản, đã tác động sâu sắc đến các sĩ phu Việt Nam, trong đó có Phan Châu Trinh. Ông từng thốt lên: “Một hôm, bỗng nhiên chợt tỉnh cơn mê, như vén mây mù trông thấy trời xanh, như vừa ra khỏi buồng tối nhìn thấy mặt trời hay mặt trăng. Niềm vui đó nói sao cho hết.”

Những quan sát và nhận định của Phan Châu Trinh về Nhật Bản

Năm 1906, Phan Châu Trinh có chuyến đi sang Nhật Bản. Sau khi quan sát, ông nhận định với Phan Bội Châu về sự khác biệt văn hóa: “Trình độ quốc dân người ta cao như thế ấy, trình độ quốc dân mình thấp như thế kia, không làm nô lệ sao được?”. Đối với ông, một nước Việt Nam độc lập mà chưa canh tân sẽ dễ bị tổn thương trước các cường quốc. Ông cảm nhận sâu sắc sự thành công của Nhật Bản là thành công của văn hóa, đạo đức, sự thức tỉnh, trí tuệ sắc bén, và sự lãnh đạo quyết đoán. Tinh thần “võ sĩ đạo” (bushido) của người Nhật, cùng sự đổi mới toàn diện xã hội, đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong ông.

Ông phê phán thái độ của một bộ phận người Việt khi nhìn vào Nhật Bản: “Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn với Nhật Bản; thấy họ tiến thì nức nở khen chớ không khi nào chịu xét vì sao mà họ tiến tới như thế? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh hay là họ còn trau dồi đạo đức, sửa đổi luân lý mới được như ngày nay?”

Năm 1925, trước khi từ Pháp trở về Việt Nam, Phan Châu Trinh vẫn khẳng định Nhật Bản là tấm gương: “Sao các anh không mở mắt mà xem gương Á Đông ta, Nhật Bổn nó khôn ngoan, nó gặp văn minh Âu Châu, nó chặt một dao với phong tục cũ, nó đi theo ngay lối mới… Còn mình bị cỡi đầu cỡi cổ, cứ nhắm mắt giữ khư khư lấy phong tục mất nước…”

Lý giải sự thành công của Nhật Bản và bài học cho Việt Nam

Nguyễn Xuân Xanh đã phân tích sâu hơn những yếu tố giúp Nhật Bản canh tân thành công, điều mà Phan Châu Trinh có thể chưa hình dung hết nhưng đã cảm nhận được cốt lõi:

  1. Giai cấp cầm quyền mạnh mẽ và quyết đoán: Giới samurai lãnh đạo sớm nhận ra sức mạnh của phương Tây đến từ công nghiệp, khoa học, giáo dục và thể chế. Họ sẵn sàng tự xóa bỏ đặc quyền để huy động tổng lực dân tộc.
  2. Uy tín và năng lực của giai cấp cầm quyền: Vừa là quân sự, vừa có học, họ dễ dàng tiếp nhận văn minh phương Tây và tổ chức công cuộc duy tân hiệu quả. Nền tảng đạo đức Nho giáo vững chắc giúp họ tiếp thu “khoa học phương Tây” trên “đạo đức phương Đông”.
  3. Chế độ chính trị ổn định và có tính cạnh tranh: Vua là biểu tượng quốc gia, cấu trúc quyền lực đa dạng tạo sự cạnh tranh, thúc đẩy phát triển.
  4. Nền tảng xã hội, kinh tế, văn hóa phát triển: Trước Minh Trị Duy Tân, Nhật Bản đã có văn hóa Edo rực rỡ, hệ thống xuất bản hiện đại, thư viện thương mại phổ biến, tỷ lệ biết chữ cao (ước tính cuối thời Tokugawa, trên 40% nam và 10% nữ được giáo dục ngoài gia đình). Cả nước có đến 17.000 trường học các loại vào năm 1868.
  5. Tinh thần tò mò, học hỏi và đổi mới sáng tạo: Người Nhật không ngừng học hỏi từ Trung Hoa rồi đến phương Tây. Họ chú trọng thực học (jitsugaku) và các phát minh vi mô (micro-inventions) đã diễn ra liên tục, tạo ý thức về giá trị của đổi mới. Họ tích cực tham gia các triển lãm công nghệ quốc tế để học hỏi.

Minh họa từ sách vật lý của Fukuzawa Yukichi, biểu tượng cho tinh thần khai sáng và tiếp thu khoa học phương Tây tại Nhật Bản thời Minh Trị, một tấm gương cho các nhà cải cách như Phan Châu Trinh.Minh họa từ sách vật lý của Fukuzawa Yukichi, biểu tượng cho tinh thần khai sáng và tiếp thu khoa học phương Tây tại Nhật Bản thời Minh Trị, một tấm gương cho các nhà cải cách như Phan Châu Trinh.

Ngược lại, Việt Nam thiếu những điều kiện này. Xã hội tụt hậu toàn diện, giới nho học mải mê “tầm chương trích cú”, chống lại đổi mới. Phan Châu Trinh nhận thấy rõ sự suy đồi văn hóa và đạo đức từ vua quan đến dân chúng là nguyên nhân mất nước.

Fukuzawa Yukichi, nhà khai sáng Nhật Bản, cũng có những nhận định tương đồng với Phan Châu Trinh về tình trạng xã hội. Ông cho rằng sự thống trị của Mạc phủ Tokugawa đã làm thui chột tinh thần quốc gia, người dân chỉ lo cho bản thân, thiếu tinh thần tranh luận và quan tâm việc công.

Giá trị thời đại trong tư tưởng Phan Châu Trinh qua các bài diễn thuyết

Trước khi qua đời, Phan Châu Trinh có hai bài diễn thuyết quan trọng vào năm 1925, thể hiện sâu sắc tư tưởng của ông: “Đạo đức và Luân lý Đông và Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”.

“Đạo đức và Luân lý Đông và Tây”

Trong bài diễn thuyết này, Phan Châu Trinh thẳng thắn chỉ ra sự suy thoái đạo đức và luân lý ở Việt Nam. Ông cho rằng: “Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có… quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp của vua và tôi. Không nói đến ‘dân và nước’ vì dân không được bàn đến việc nước!” Ông kêu gọi: “Ta đã biết nước ta mất cũng vì luân lý, dân ta hèn cũng vì mất đạo đức luân lý, bị người khinh bỉ giày xéo cũng vì mất đạo đức luân lý thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta.”

Khi được hỏi liệu có thể bỏ hẳn luân lý cũ để theo luân lý mới của phương Tây, ông ví von: “Một nước luân lý cũ đã mất là nước không có cơ sở, nay bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu? … Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên có sức bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu Châu vậy.”

“Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”

Phan Châu Trinh phê phán chế độ quân chủ chuyên chế Á Đông, cho rằng nó đã bóp méo đạo Nho để đè nén dân: “Xét cái lịch sử quân chủ ở Á Đông này thì chúng ta biết rằng từ Tần Thủy Hoàng về sau không còn có đạo nho thi hành trong nước nữa, chỉ còn sót lại một hai điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén dân.” Ông đề cao dân trị chủ nghĩa, coi đó là con đường tất yếu để đất nước phát triển.

Những tư tưởng này cho thấy tầm nhìn vượt thời đại của Phan Châu Trinh. Ông không chỉ nhìn thấy những vấn đề của xã hội Việt Nam đương thời mà còn đưa ra những giải pháp mang tính căn cơ, nhấn mạnh vai trò của đạo đức, dân trí và thể chế.

Đánh giá về di sản tư tưởng Phan Châu Trinh

Hơn một thế kỷ đã trôi qua, những trăn trở và thông điệp của Phan Châu Trinh vẫn còn nóng hổi. Nguyễn Xuân Xanh nhận định: “Ngày nay cụ Phan có thể hài lòng phần nào: Độc lập đã có, học hành đã có, đổi mới phần nào đã có, nhưng chắc Cụ còn xa mới hết lo âu, bởi vì nhìn chung, con người Việt Nam vẫn còn là trở ngại của chính mình, một bộ phận lớn còn mang những quán tính cũ xưa từng kềm hãm đất nước.”

Những vấn nạn như thiếu nền tảng đạo đức vững chắc, thiếu tinh thần “văn minh-khai sáng”, ý chí tự lực tự cường chưa cao, sự học hỏi chưa sâu sắc, tính ỷ lại, tự mãn, hời hợt… vẫn là những rào cản cho sự phát triển. Lời kêu gọi của Phan Châu Trinh về việc “cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức” vẫn vang vọng đến ngày nay.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã từng nhận xét về Phan Châu Trinh: “Như tiên sinh, không những là một người chí sĩ yêu nước, mà thật là một nhà chính trị cách mạng đầu tiên nước Việt Nam ta vậy… thế mà tiên sinh cứ khăng khăng ôm một cái chủ nghĩa, đeo đẳng mãi với cảnh hoạn nạn mà không chịu rời ra… sánh với ông Sào Nam (Phan Bội Châu), chí khí đồng nhau, nhiệt thành đồng nhau, phách lực đồng nhau, mà cái cảnh càng khó, cái lòng càng khổ hơn vậy.”

Phan Châu Trinh mất ngày 24 tháng 3 năm 1926. Đám tang của ông đã trở thành một cuộc biểu thị tinh thần yêu nước và cách mạng mạnh mẽ của nhân dân. Di sản tư tưởng của ông, đặc biệt là các tác phẩm chính luận, là tài sản vô giá, cần được tiếp tục nghiên cứu, suy ngẫm và vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

Tìm đọc và tải sách “Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận (PDF)”

Việc tiếp cận các tác phẩm của Phan Châu Trinh, đặc biệt là những bài chính luận then chốt, là vô cùng cần thiết cho những ai muốn tìm hiểu sâu về tư tưởng của ông cũng như lịch sử cận đại Việt Nam. Cuốn sách “Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận”, dựa trên công trình của Vĩnh Sính và phần dẫn nhập của Nguyễn Xuân Xanh, là một nguồn tài liệu quý giá.

Độc giả quan tâm có thể tìm mua bản sách giấy do Nhà xuất bản Trẻ phát hành để ủng hộ tác giả, dịch giả và nhà xuất bản. Bên cạnh đó, việc tìm kiếm các phiên bản Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận (PDF) hoặc các bài viết, diễn văn riêng lẻ của ông dưới dạng PDF trên các kho tư liệu mở, thư viện số cũng là một cách để tiếp cận di sản này. Khi tìm kiếm các bản PDF, độc giả nên lưu ý lựa chọn những nguồn uy tín để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của văn bản.

Nghiên cứu tư tưởng Phan Châu Trinh không chỉ là ôn lại quá khứ mà còn là để soi rọi hiện tại và hướng tới tương lai, như lời nhắn nhủ của ông: “Anh em ta hãy gắng mà làm đi.”

Tài liệu tham khảo

[1] Vĩnh Sính [2016], Việt Nam & Nhật Bản Giao Lưu Văn Hóa.DTBOOKS, nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Tr.262.
[2] Vĩnh Sính [2005], Thử tìm hiểu ý nghĩa tác phẩm Pháp Việt Liên Hợp của Phan Châu Trinh. Từ Đông Sang Tây, Kỷ yếu mừng tặng GS Lê Thành Khôi 80 tuổi. Chủ biên: Cao Huy Thuần – Nguyễn Tùng – Trần Hải Hạc -Vĩnh Sính. Nhà xuất bản Đà Nẵng. Tr.142
[3] Trong Nguyễn Xuân Xanh, Nước Đức Thế Kỷ XIX. ZENBOOK& NXB Dân Trí, 2016. Tr. 55.
[4] Nửa thế kỷ trước, thời Nguyễn Trường Tộ, đã có tân văn, gồm hai quyển sách quan trọng Danh hoàn chí lược của Từ Kế Dư (1842, khái lược về địa lý) và Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1842), cả hai viết về tình hình thế giới, có ảnh hưởng lên những sĩ phu thức thời.
[5] Vĩnh Sính, Lời dẫn nhập trong sách, tr. 20. (Trích từ bài gốc, có thể là Lời dẫn nhập của Vĩnh Sính trong sách tiếng Anh, hoặc của Nguyễn Xuân Xanh trong bản dịch tiếng Việt)
[6] Sắp ra mắt, Đại học Quốc gia TP HCM. (Thông tin về sách Tự thuật của Hideki Yukawa)
[7] Vĩnh Sính [2005], tr. 142
[8] Vĩnh Sính [2005], tr. 142.
[9] Vĩnh Sính [2005], tr.143.
[10] Xem Nguyễn Xuân Xanh, Các bài học từ Trung Hoa và Nhật Bản. Sẽ công bố.
[11] Phan Châu Trinh, Đạo đức và Luân lý Đông và Tây. Trong sách, 104. (Trích từ tác phẩm của Phan Châu Trinh, được dẫn lại trong sách của Vĩnh Sính/bài của NXX)
[12] Phan Châu Trinh, Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ trị. Trong sách, 110. (Trích từ tác phẩm của Phan Châu Trinh, được dẫn lại trong sách của Vĩnh Sính/bài của NXX)
[13] Trong Nguyễn Xuân Xanh, Giáo dục nào cho tương lai?
[14] Nguyễn Xuân Xanh, Tại sao người Nhật mê đọc sách?
[15] Kuwabara Takeo, Japan and Western Civilization. University of Tokyo Press, 1983. Tr.137.
[16] Tessa Morris-Suzuki, The Technological Transformation of Japan. Cambridge Universtiy Press, 1994. Tr. 25.
[17] Tessa Morris-Suzuki, như trên, tr.81-82
[18] Tessa Morris-Suzuki, như trên, tr.14
[19] Nguyễn Xuân Xanh, Các bài học từ Trung Hoa và Nhật Bản.
[20] Phan Châu Trinh, Đạo đức và Luân lý Đông và Tây. Trong sách, 103. (Trích từ tác phẩm của Phan Châu Trinh, được dẫn lại trong sách của Vĩnh Sính/bài của NXX)
[21] Đạo đức và Luân lý Đông và Tây, trong sách, 103. (Trích từ tác phẩm của Phan Châu Trinh, được dẫn lại trong sách của Vĩnh Sính/bài của NXX)
[22] Đạo đức và Luân lý Đông và Tây, trong sách, 104. (Trích từ tác phẩm của Phan Châu Trinh, được dẫn lại trong sách của Vĩnh Sính/bài của NXX)
[23] Vĩnh Sính, Việt Nam & Nhật Bản giao lưu văn hóa, 107/08.
[24] Vĩnh Sính, Việt Nam & Nhật Bản giao lưu văn hóa, 108/09.
[25] Nguyễn Xuân Xanh, Các bài học từ Trung Hoa và Nhật Bản.
[26] Kuwabara Takeo, Japan and Western Civilization. Tr.162.
[27] Kuwabara Takeo, Japan and Western Civilization. Tr. 135.
[28] Vĩnh Sính, Việt Nam& Nhật Bản Giao Lưu Văn Hóa, 106.
[29] Vĩnh Sính, Việt Nam& Nhật Bản giao lưu văn hóa, 106.
[30] Vĩnh Sính, Việt Nam& Nhật Bản giao lưu văn hóa, 35.
[31] Nguyễn Xuân Xanh, Các Bài học từ Trung Hoa và Nhật Bản.
[32] Vĩnh Sính [2005], trang 145-46.

TẢI SÁCH PDF NGAY